Thứ Tư, 29 tháng 5, 2013

Lấy lại tên nước: Việt Nam dân chủ cộng hòa?

Nhân dân cần một lời giải trình thuyết phục

(Dân trí) - Những ngày qua, việc thay đổi tên nước trở thành vấn đề sôi động trên nghị trường. Nhiều ý kiến muốn lấy lại tên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa song cũng không ít ý kiến giữ nguyên tên nước hiện nay. Tuy nhiên, cả hai luồng ý kiến đều có một điểm chung, đó là cần có lời giải trình thỏa đáng với dân.


Khi đề xuất hai phương án trình Quốc hội cách đây chưa lâu, đối với phương án lấy lại tên Việt Nam dân chủ cộng hòa, UB Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 lập luận tên này gắn liền với sự ra đời của chính thể cộng hòa đầu tiên, được long trọng công bố qua Bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ tịch, được thể hiện qua 2 bản Hiến pháp (1946 và 1980), phản ánh đúng trình độ phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, có khả năng lôi cuốn, tập hợp đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận chung trong xã hội, đồng thời thuận lợi hơn trong quan hệ hợp tác với các nước khác trên thế giới…
Trả lời về lý do vẫn giữ nguyên tên Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa qua, ông Phan Trung Lý - Trưởng Ban Biên tập sửa đổi Hiến pháp cho biết việc thay đổi tên nước trong thời điểm này sẽ dẫn đến những hệ quả không có lợi, thậm chí bị xuyên tạc là đang xa rời mục tiêu, con đường lên chủ nghĩa xã hội và làm phát sinh nhiều thủ tục hành chính, gây tốn kém, phức tạp… Phương án này cũng tránh việc phải thay đổi về quốc huy, con dấu, quốc hiệu trên các văn bản, giấy tờ.
Lời giải trình trên đã không được nhiều đại biểu Quốc hội và cử tri chấp nhận.
Trước hết, nói về việc “lợi dụng”, “xuyên tạc”, “xa rời mục tiêu”… Xin thưa, đối với một số người cố tình xuyên tạc, bóp méo thì dù thay hay không thay hoặc thay bằng bất cứ tên nào khác, họ cũng sẽ bóp méo và xuyên tạc. Tuy nhiên, đây là số ít, không nhất thiết phải quan tâm.
Cũng xin không đề cập ý kiến “ngộ nghĩnh” đến khó hiểu như việc đổi tên nước “… chỉ một số tiểu thương quan tâm" của đại biểu Phạm Trường Dân, Phó giám đốc Công an tỉnh Quảng Nam.
Xin chỉ đề cập đến một số lý do còn lại.
Về lý do phức tạp trong các thủ tục hành chính như thay đổi quốc huy, con dấu, quốc hiệu… có lẽ không khó khăn cho lắm đối với thời đại khoa học và công nghệ hiện nay. Vả lại, việc thay con dấu chẳng hạn, có thể chúng ta tiến hành từng bước trên tinh thần ưu tiên những con dấu mang tính đối ngoại còn trên các văn bản khác, chúng ta có thể hạn định một thời gian thích hợp để thay đổi dần.
Lý do gây tốn kém cũng chưa thuyết phục bởi nếu là việc cần làm, dù tốn kém vẫn phải làm. Vào thời điểm năm 1980, khi đó kinh tế đất nước rất khó khăn, chúng ta cũng đã từng thực hiện việc này. Hiện nay, tuy kinh tế có một số khó khăn nhưng so với thời điểm đó, chúng ta có tiềm lực hơn ngàn vạn lần.
Có lẽ điều mà gây lo ngại nhất là việc thay đổi trên tiền đồng Việt Nam. Trước hết, phải xác định đây không phải là “đổi tiền” mà thực chất chỉ là thay tên quốc huy trên tiền đồng Việt Nam, có cùng mệnh giá không đổi. Vì vậy, việc thay đổi này tương tự như thay tiền cũ bằng tiền mới nên có thể thay dần trong một khoảng thời gian nào đó theo lịch trình.
Tóm lại, với những yếu tố như “gắn liền với sự ra đời của chính thể cộng hòa đầu tiên, được long trọng công bố qua Bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ tịch, có khả năng lôi cuốn, tập hợp đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận chung trong xã hội, đồng thời thuận lợi hơn trong quan hệ hợp tác với các nước khác trên thế giới…” của Quốc hiệu Việt Nam dân chủ cộng hòa thì những lời giải thích của UB Dự thảo sửa đổi Hiến pháp chưa thuyết phục được nhiều đại biểu và cử tri là có cơ sở.

Việc thay đổi tên nước hay không là do ý nguyện của nhân dân mà Quốc hội là người đại diện. Tuy nhiên, dù thay đổi hay không thay đổi, đại biểu Quốc hội và cử tri đều cần một lời giải trình thuyết phục bởi “phải giải thích thỏa đáng, thuyết phục, người dân mới chấp nhận” như ý kiến của đại biểu Đỗ Thị Thủy (Vĩnh Phúc).

Gửi Thống đốc trước phiên trả lời chất vấn vàng, nợ xấu

(Đời sống) - Hôm nay (30/5/2013), Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình trả lời chất vấn đại biểu Quốc hội, qua đây có một số vấn đề cần gửi tới Thống đốc, mong được giải đáp.
Quản lý thị trường vàng, hay giúp ngân hàng thương mại?


Cách đây một năm, trước sự lên xuống bấp bênh của giá vàng trong nước vì theo giá thế giới, và sự chênh lệch của giá luôn duy trì ở mức 500.000 – 1 triệu đồng/lượng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho rằng như thế là “không ổn”, có sự đầu cơ làm giá, làm gia tăng nhập lậu vàng, nên tuyên bố chênh lệch giữa giá vàng trong nước - thế giới chỉ cần 400.000 đồng là hợp lý.
Và để thực hiện điều này, NHNN từng bước độc quyền thương hiệu vàng miếng SJC, độc quyền nhập khẩu, và tham gia mua – bán vàng miếng. Qua từng bước đi của NHNN, các thương hiệu vàng khác dần biến mất chỉ còn vàng miếng SJC, rồi giá vàng trong nước cứ nới dần khoảng cách với giá vàng thế giới lên 2 rồi 3 triệu đồng mỗi lượng. Tới cuối tháng 3/3013, khi NHNN chính thức tham gia bán vàng thông qua việc đấu thấu vàng miếng SJC, chênh lệch chẳng những không được thu hẹp như tuyên bố trước đó của NHNN mà còn tiếp tục nới rộng thêm, thường duy trì “ổn định” ở mức chênh lệch từ 3-5 triệu đồng mỗi lượng, thậm chí có thời điểm lên tới 7 triệu đồng/lượng.
Khi tham gia đấu thầu vàng, NHNN luôn đưa ra giá bằng hoặc cao hơn giá thị trường, giá này cao hơn thế giới vài triệu đồng, phần tiền chênh lệch đó sau nhiều tháng để dư luận đồn đoán, đầu tháng năm vừa rồi Thống đốc mới lên truyền hình giải thích tiền đó ngân sách được hưởng.
Rồi người ta đặt câu hỏi, ai mua vàng của NHNN nhiều nhất, và thống kê đưa ra là các ngân hàng thương mại, mua để tất toán trạng thái cho kịp thời hạn 30/6. Vậy xin hỏi Thống đốc, phải chăng việc độc quyền vàng là để NHNN tham gia bán vàng cho ngân hàng thương mại, vì thực tế thị trường vàng biến động mạnh vì các ngân hàng thương mại tăng thu mua, làm vàng trên thị trường khan hiếm, đẩy giá thành lên cao. Trong khi huy động vốn tín dụng tại các ngân hàng thương mại tăng, nhưng tín dụng cho vay lại không tăng tương ứng, và lời giải là tiền được dùng để mua vàng.
Đặt vấn đề nếu NHNN không tham gia đấu thầu vàng, thì chưa biết các ngân hàng thương mại sẽ còn đẩy giá vàng lên bao nhiêu nữa, khi tính từ cuối tháng 3 tới nay, NHNN đã bán ra khoảng 21 tấn vàng. Và cũng chưa biết các ngân hàng thương mại sẽ làm sao để tất toán trạng thái vàng trước 30/6, hay lại như các thời hạn trước, là cho hoãn, giãn tiếp. Việc NHNN đấu thầu vàng thật sự là một cái “phao cứu sinh” được tung ra để các ngân hàng thương mại bấu víu. Chứ nếu không có đấu thầu, chẳng biết tới bao giờ các ngân hàng thương mại mới gom đủ số vàng cần thiết, lúc đó giá vàng chưa biết sẽ đi tới đâu.
Nhưng có một số phiên đấu thầu dù giá không khác các phiên trước và sau đó, nhưng lại không bán được, điều này khiến nhiều người nghĩ thật sự đang có thị trường vàng tốt, khi NHNN đưa giá hợp lý sẽ bán được, không thì ế, nghe ra cũng rất cạnh tranh, lên – xuống rất thị trường. Nhưng nhiều người lại nghi nghờ đấy chỉ là một cách cạnh tranh có “tính toán” của NHNN?
Ngày 30/3, tại phiên họp Ban chỉ đạo công tác phòng chống buôn lậu, hàng giả, gian lận thương mại (Ban chỉ đạo 127), thiếu tướng Nguyễn Tiến Lực, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm (Bộ Công an) khẳng định, vàng SJC đã được hưởng lợi từ chính sách coi SJC là thương hiệu vàng miếng quốc gia, trong khi những thương hiệu khác bị phương hại. Đồng thời xuất hiện tình trạng vàng giả SJC, vàng kém chất lượng đưa vào các doanh nghiệp kinh doanh để bán cho dân.
Sau đó thiếu tướng Lực có nói thêm với tờ Tuổi trẻ rằng, Tổng cục Cảnh sát phòng chống tội phạm đã chỉ đạo các đơn vị nghiệp vụ nắm bắt tình hình, điều tra về tình trạng vàng giả SJC, vàng kém chất lượng đưa vào bán cho dân.
Vì vậy, ở đây đặt ra câu hỏi với Thống đốc rằng, thiệt hại của những doanh nghiệp khác khi độc quyền vàng miếng SJC sẽ do ai chịu trách nhiệm?
Trong báo cáo tổng hợp kiến nghị của cử tri gửi tới kỳ họp thứ 5 của Quốc hội của Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có nêu rõ: “Tình trạng giá vàng trong nước chênh lệch quá lớn với giá vàng thế giới hiện nay dẫn đến sự băn khoăn, thiếu tin tưởng của cử tri và nhân dân về năng lực của cơ quan nhà nước hữu quan trong việc quản lý điều hành thị trường vàng”.
Cử tri cũng bày tỏ sự lo lắng trước tình hình bất ổn của thị trường vàng, việc Ngân hàng Nhà nước tham gia bình ổn thị trường vàng nhưng chưa đạt hiệu quả cao, chưa kéo được chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế, gây thiệt hại cho người tiêu dùng trong nước và việc sử dụng vàng.
Đề nghị của nhiều công dân với Nhà nước là cần có giải pháp hiệu quả để quản lý thị trường vàng trong nước với chủ trương là không khuyến khích đầu tư vàng, kéo giảm sự chênh lệch giữa giá vàng trong nước và quốc tế; có kế hoạch dự trữ vàng quốc gia để dự phòng trong những trường hợp cần thiết.
Giải cứu thị trường bất động sản, mua nợ xấu

Không chỉ giúp các ngân hàng thương mại gom được vàng để tất toán, NHNN còn tung ra gói hỗ trợ 30.000 tỷ đồng để hỗ trợ vay mua nhà và vay xây nhà ở xã hội.
Việc này được kỳ vọng là khơi thông thị trường, mà quan trọng hơn, theo nhiều người đó là phá băng thị trường bất động sản, cái được chuyên gia được xem “xấu hơn nợ xấu”, vì trước đây các ngân hàng đã cho vay mua, xây nhà rất nhiều, giờ thị trường đóng băng, nguồn vốn vay không thể thu hồi được, và nếu tiếp tục, phá sản thì ngân hàng thương mại sẽ thiệt hại rất lớn.
Và xin lưu ý rằng, như ông Nguyễn Bá Thanh từng nói nhiều lần, trong quá trình định giá bất động sản cho vay, ngân hàng đã định giá cao hơn giá trị thật nhiều lần để cho vay số tiền lớn – thậm chí cao hơn cả giá trị thật của tài sản thế chấp, nên giờ nếu thị trường không được khơi thông, ngân hàng có lấy tài sản thế chấp về vẫn “nguy to”, khi nếu có bán vẫn không thể thu hồi được tiền vốn vay. Vì vậy nếu thị trường bất động sản được khơi thông, các ngân hàng thương mại may ra sẽ giảm bớt được một phần thiệt hại.


Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị và một số tỉnh phản ánh ý kiến cử tri cho rằng có vấn đề lợi ích nhóm trong việc giải cứu thị trường bất động sản. Đề nghị Quốc hội, Chính phủ xem xét lại vì sao Nhà nước phải đứng ra giải cứu thị trường bất động sản, có phải chăng do một số người có cổ phần trong đó nên có những hoạt động chi phối nhằm phục vụ cho lợi ích của mình hay không?
Ngay cả việc thành lập Công ty mua bán nợ quốc gia, một mục đích chính cũng là để mua bán lại các khoản vay để đầu tư bất động sản, tái cấp vốn cho các doanh nghiệp tiếp tục hoạt động trước nguy cơ phá sản hiện hữu, khi đã 3 năm qua thị trường bất động sản vẫn nằm im. Và nếu doanh nghiệp phá sản thì hệ lụy với các ngân hàng là không nhỏ, nguy cơ đổ vỡ ngân hàng cũng đã được các chuyên gia tính tới. Và câu hỏi được đặt ra, tại sao lại phải cứu những ngân hàng yếu kém.
Cũng phải nói thêm rằng, người dân có nhu cầu mua nhà, nhưng giá nhà quá cao, diện tích căn hộ quá lớn, giờ nếu công ty mua bán nợ quốc gia mua lại các khoản nợ bất động sản, vậy giá bất động sản sẽ thế nào? Nếu giá tiếp tục giảm, thì kinh doanh của công ty này sẽ lỗ, và như thế là gây thất thoát cho ngân sách nhà nước; còn nếu giá bất động sản không giảm đảm bảo công ty mua bán nợ hòa vốn hoặc có lãi, tức là giá nhà phải được duy trì mức hiện tại thậm chí phải tăng cao hơn trong thời gian tới, nếu như vậy kỳ vọng giá bất động sản tiếp tục giảm xem ra khó thành, giấc mơ có nhà với nhiều người lại càng trở nên xa vời hơn.
Trong 1, 2 năm gần đây NHNN đã nhiều lần thanh tra các ngân hàng được cho là “yếu kém”, tuy kết quả thanh tra không được công bố, nhưng sau đó một số ngân hàng đã buộc phải tái cơ cấu, sát nhập để tránh phá sản vì những khoản cho vay gần như không thể thu hồi.



Trong khi NHNN đang tập trung cho thị trường vàng, bất động sản, nhà băng, thì các doanh nghiệp sản xuất – đối tượng chính kích thích nền kinh tế, tạo việc làm, xuất khẩu thu ngoại tệ về cho đất nước… lại được đánh giá là khó tiếp cận vốn vay để duy trì, mở rộng sản xuất, hoặc phải vay vốn với lãi suất cao (thời gian gần đây lãi vay có giảm nhưng vẫn còn cao). Và chắc chắn, nhiều doanh nghiệp phá sản một phần là do không vay được vốn để tiếp tục hoạt động nên đành đóng cửa. Còn sức mua của người dân tiếp tục giảm, khi đã phải móc những đồng tiền cuối cùng.

Cấm gì làm nấy!

Đối với người việt mình, cái gì không quản được thì cấm, và cấm gì làm nấy. Bởi vì nếu không làm thì ....














(Theo Kienthuc)

Đại biểu Quốc hội: Xin lỗi các đồng chí!

Trăn trở của người biên tập dự thảo Hiến pháp

Nhiều kiến nghị của các thành viên Ban Biên tập, nhiều ý kiến của người dân chưa được tiếp thu đầy đủ vào trong dự thảo.
Chuyên gia kinh tế Trần Du Lịch - cũng là một thành viên Ban Biên tập bày tỏ trong buổi họp tổ QH về HP, có mặt cả Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ngồi ngay cạnh.


Ông Lịch cho biết, ông đã đề xuất và được giao thiết kế một số điều khoản nhằm tăng quyền tự chủ cho địa phương theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XI, tách biệt ngân sách quốc gia, ngân sách địa phương để “chặt” hoàn toàn cơ chế xin - cho. Kèm theo đó là phương án thể hiện nội dung kinh tế trong HP.
“Tôi đã hoàn thành, báo cáo, lập luận đầy đủ. Thế nhưng dự thảo mới nhất không đưa vô chữ nào cả”. Ngừng giây lát, ông day dứt: “Tôi không đóng góp được chữ nào, tức là không hoàn thành nhiệm vụ, xin lỗi các đồng chí”.
(Theo Vietnamnet)

Giải mã các biểu tượng

Bạn có biết ý nghĩa và nguồn gốc của biểu tượng hòa bình, chữ thập đỏ hay kí hiệu $?
1. Biểu tượng hòa bình


Biểu tượng hòa bình (Peace sign) ra đời vào năm 1958 và được thiết kế bởi Gerald Holtom - một họa sĩ kiêm nhà thiết kế, tốt nghiệp Trường đại học Nghệ thuật Hoàng gia Anh. Biểu tượng được sử dụng trong chiến dịch giải trừ vũ khí hạt nhân (Campaign Nuclear Disarmament - CND). Biểu tượng này thể hiện cả hai chữ cái N và D (viết tắt của Nuclear Disarmament) trong hệ thống semaphore (loại hình truyền tin dùng cờ tay làm phương tiện truyền tải các tín hiệu): Chữ cái N được thể hiện bởi 2 lá cờ hình chữ V ngược, chữ cái D được thể hiện bởi một lá cờ chỉ lên trời và một lá cờ chỉ xuống đất.

Biểu tượng này thể hiện cả hai chữ cái N và D (viết tắt của Nuclear Disarmament) trong hệ thống semaphore.


Tuy nhiên, một giả thiết khác được đưa ra, biểu tượng này đã được tạo ra bởi hoàng đế Nero của La Mã khi ông đã ra lệnh đóng đinh lộn ngược Thánh Peter. Cũng đã có nhiều diễn giải khác nhau về ý nghĩa của biểu tượng này. Một số người nhìn ra đó là dấu chân chim bồ câu. Nhiều người bóp méo sự thật cho nó là dấu hiệu của quỷ Satan hay gán cho nó những ý nghĩa chống Thiên Chúa giáo. Dù vậy, với những người yêu công lý và lẽ phải, biểu tượng này chỉ có một ý nghĩa duy nhất: biểu tượng của hòa bình.
2. Biểu tượng ngành y - dược
Một cây gậy với con rắn cuốn quanh từ rất lâu đã trở thành biểu tượng của ngành y. Một vài người cho rằng, nó có liên hệ với câu chuyện Exodus trong Kinh Thánh, khi Moses ném cây gậy xuống đất và giết con rắn của phù thủy xứ Ai Cập thì một con rắn khác ngậm thảo dược bò tới để cứu và làm con rắn bị chết sống lại.

Biểu tượng ngành y.
Người ta cũng cho rằng, cây gậy trên biểu tượng thuộc về Aesculapius (La Mã) hay Asklepios (Hy Lạp), vị thần y dược. Những đứa con của Asculapius cũng có liên hệ với các thầy thuốc. Hygieia là nữ thần sức khỏe, Panaceia là vị thần chữa lành vết thương. Dựa vào truyền thuyết trên, ngành y học đã dùng biểu tượng con rắn thành quấn quanh cây gậy phép của Aesculapius. Con rắn quấn quanh cây gậy tượng trưng cho sự khôn ngoan, khả năng chữa trị bệnh và kéo dài tuổi thọ.
Trong biểu tượng của ngành dược, người ta cũng sử dụng con rắn này nhưng nó quấn quanh một cái ly có chân cao.

Biểu tượng ngành dược.
Chiếc ly tượng trưng cho chén thuốc của nữ thần sức khỏe Hygieia, bên trong có chứa đựng chất dịch được chiếc xuất từ các loại cây cỏ. Con rắn tượng trưng cho sức khỏe và sự trẻ trung. Biểu tượng của ngành dược học nhanh chóng đã được quốc tế công nhận giống như biểu tượng con rắn và cây gậy của ngành y học. Ngày nay, biểu tượng này đại diện cho rất nhiều tổ chức y tế trên khắp thế giới.
3. Biểu tượng chữ thập đỏ


Nhận thấy sự thiếu thốn về y tế trong việc trị thương sau trận chiến Solferino giữa Pháp và Áo vào năm 1859, doanh nhân người Thụy Sĩ Jean - Henri Dunant đã đề nghị thành lập một tổ chức trung lập để chăm sóc cho những người bị thương trong chiến tranh. Tổ chức chữ thập đỏ quốc tế bắt đầu hoạt động vào năm 1863. Sau đó một năm, Công ước Geneva với những nội dung về vấn đề nhân đạo được ký kết. Chữ thập đỏ trên nền trắng là sự đảo lại của quốc kỳ Thụy Sĩ, quê hương của ông Dunant. Nó cũng rất dễ được nhận thấy từ khoảng cách xa, rất phù hợp cho việc cứu thương.
4. Biểu tượng mặt cười


Harvey Ball thiết kế biểu tượng mặt cười đầu tiên vào năm 1963 cho một công ty bảo hiểm. Để cổ vũ tinh thần của nhân viên sau việc sát nhập công ty, biểu tượng này đã được in lên các phù hiệu tròn, poster và các tấm card. Các phù hiệu này trở nên rất phổ biến với hơn 50 triệu cái bán ra vào năm 1971. Harvey Ball chỉ được trả công 45 USD (khoảng 900.000 VNĐ) cho việc thiết kế biểu tượng này. Ông chưa bao giờ đăng ký bản quyền, nhưng theo lời con trai ông, ông chưa bao giờ cảm thấy hối tiếc vì điều đó.
5. Biểu tượng USD


Có nhiều chuyện kể xoay quanh nguồn gốc của ký tự “$" chỉ đồng USD. Vì tiền thân của USD là đồng 8 real của Tây Ban Nha nên có nhiều người cho rằng hình chữ "S" có nguồn từ số "8". Giải thích thuyết phục nhất là dấu "$" được bắt nguồn từ chữ "PS" ("peso" hay "piastre") được viết kết hợp trong tiếng Tây Ban Nha. Về sau, chữ "P" biến thành một dấu gạch thẳng đứng (- | -) . Dấu "$" đã được sử dụng trước khi tiền Tây Ban Nha được dùng làm tiền tệ chính thức trong năm 1785.


 Ký hiệu USD đôi khi còn được viết với hai dấu gạch thẳng đứng. Đây là thói quen cũ: một nét cho chữ "S", một nét cho đường gạch đứng, và nét cuối cho đường cong trong chữ "P". Những người viết nhanh không chú ý đến việc viết một chữ "P" chuẩn, nên tiện tay viết một dấu gạch nữa.
6. Biểu tượng bảng Anh



Biểu tượng đồng bảng Anh - đơn vị tiền tệ của Liên hiệp Anh có xuất xứ từ chữ cái L in hoa. Đây là chữ cái viết tắt cho từ “libra” - đơn vị đo khối lượng chính của La Mã. Từ này là một từ Latin có nghĩa là “thăng bằng” hay “quy mô”. Đồng bảng (pound) được sử dụng làm đơn vị tiền tệ bởi vì đó là giá trị của một pound bạc nguyên chất.

Tìm hiểu về tàu sân bay lớp Nimitz (phần 2)

Ở bài trước, chúng ta đã có dịp tìm hiểu về thiết kế của tàu sân bay lớp Nimitz và cách thức những "con chim sắt" hoạt động trên nó. Lần này chúng ta sẽ tìm hiểu về những thiết bị trên tháp chỉ huy, khoang chính và cuộc sống thường ngày trên căn cứ nổi này.

24. USS Abraham Lincoln
6. Tháp chỉ huy
Đầu não để điều khiển hoạt động của các hàng không mẫu hạm chính là tháp chỉ huy (Island). Cao 46m, rộng 6m do đó nó không chiếm quá nhiều diện tích ở trên sàn bay. Island được phân chia thành nhiều phòng và có độ cao đủ để bao quát toàn bộ sàn bay.

25. Island trên USS Abraham Lincoln
Phía trên cùng của Island được trang bị hệ thống radar và ăng ten thông tin liên lạc tối tân. Các thiết bị này có thể theo dõi và chặn các tín hiệu từ tàu của đối phương, thậm chí có thể nhận biết được máy bay hoặc tên lửa đang có ý đồ không mấy thiện cảm. Ngoài ra, thiết bị này cũng là nguồn thu nhận tín hiệu từ các vệ tinh quân sự của Hoa kỳ. Hình ảnh dưới đây chụp lại quang cảnh của khu "điều hành bay chủ lực" (được gọi là Primary Flight Control hay Pri-Fly). Chỉ có các sĩ quan không quân và các trợ lý (Air Boss và Mini Boss) mới có đặc quyền bước vào Pri-Fly (tất nhiên là ở đó Obama và bà vợ cũng có quyền ngồi). Trong khu vực này họ sẽ trực tiếp điều hành tất cả các hoạt động bay trên sàn tàu và trong vòng bán kính 8km.

26. Cảnh bận rộn trong Pri-Fly
Air Boss và Mini-Boss đều là những phi công dày dạn kinh nghiệm. Họ được cung cấp máy tính và các thiết bị liên lạc để kiểm soát tất cả mọi thứ, tuy nhiên phần lớn thông tin lại nhận được bằng cách "dòm" qua cửa sổ (kiểu hải quân). Khi một máy bay tiếp cận được trong vòng bán kính 1,2km thì các sĩ quan sẽ phát tín hiệu hướng dẫn thủ tục hạ cánh.
Dưới Pri-Fly là trung tâm chỉ huy của tàu (Bridge). Đây chính là "cung điện" của vị thuyền trưởng cao quý, họ ngồi trên một chiếc ghế da trang nghiêm điều khiển và theo dõi con tàu thông qua các màn hình máy tính. Tuy nhiên, thuyền trưởng không phải là người lái tàu chính mà là người dơ ngón tay lên để chỉ trỏ, nhờ đó các sĩ quan chỉ huy chính (Helmsman) sẽ điều tiết con tàu bằng cách truyền đạt lại thông tin cho các sĩ quan lái tàu (Lee Helmsman). Ngoài ra, ở trong khu vực này còn có những sĩ quan thông tin, những người chịu trách nhiệm theo dõi và chuyển hướng thông tin, bộ phận cảnh giới và nhân viên hỗ trợ. Khi các sĩ quan chỉ huy không thể có mặt trên Bridge, họ sẽ ủy quyền cho một nhân viên phụ trách khác.

27. Thuyền trưởng David Logsdon của tàu USS Harry Truman.

28. Lee helmsman (trái) và helmsman trên tàu USS Theodore Roosevelt
Một điều khá thú vị là hầu hết các sĩ quan chỉ huy tàu sân bay lại thường là các cựu phi công của Hải quân, do đó họ có đủ kiến thức để hiểu được cách thức hoạt động của các chuyến bay. Mặc dù là chỉ huy của một tàu sân bay, nhưng họ lại bị cấm leo vào buồng lái của bất cứ chiếc máy bay nào.
Tương tự Pri-Fly, Bridge được trang bị các màn hình cao cấp cùng nhiều thiết bị định vị toàn cầu GPS và hệ thống điều khiển radar. Tuy nhiên, các sĩ quan ở đây vẫn áp dụng "chiêu" truyền thống: Dựa vào những quan sát thông thường qua cửa sổ để xem xét các hoạt động xung quanh.
Ở dưới Bridge là trung tâm chỉ huy của Đô đốc (ông này mới bự nè!) hay còn gọi là Flag Bridge, phụ trách toàn bộ hoạt động của con tàu. Khu vực này có rất nhiều hoạt động khác nhau bao gồm cả kiểm soát sàn bay và khởi động các biện pháp phòng vệ, chiến đấu. Trong một không gian hẹp và không có cửa sổ, các sĩ quan quản lý máy bay (gọi là Handler hoặc Mangler) và bộ sậu của mình theo dõi tất cả máy bay đang ở trên sàn cũng như ở dưới khoang chứa. Công cụ theo dõi chính được gọi là "Ouija Board", một mặt bàn bằng nhựa phác thảo những chuyến bay đang diễn ra trên sàn tàu và những máy bay đang nằm trong khoang chứa. Mỗi chiếc máy bay được đại diện bởi một mô hình nhỏ, khi máy bay thật di chuyển nó cũng sẽ di chuyển tương tự. Nếu một chiếc máy bay được đưa ra khỏi mặt bàn thì điều đó có nghĩa là nó đang được sửa chữa hoặc gặp các sự cố khác.

29. Các sĩ quan của tàu USS George Washington đang theo dõi trên "Ouija Board".
Ngoài trung tâm điều khiển ở trên Island thì trong khoang tàu còn được bổ sung những trung tâm kiểm soát khác như trung tâm kiểm soát không lưu của tàu (Carrier Air Traffic Control Center - CATCC), bao gồm nhiều phòng nằm ngay dưới sàn bay. Giống như các trung tâm kiểm soát không lưu trên mặt đất khác, CATCC được trang bị các thiết bị radio và radar hiện đại, trong đó có bộ điều khiển dùng để theo dõi các máy bay lạ trong khu vực (những chiếc máy bay không nằm trong tầm kiểm soát của Air Boss).
Bên cạnh CATCC là trung tâm chỉ huy chiến đấu (Combat Direction Center - CDC). Trách nhiệm chính của CDC là xử lý thông tin đến từ các mối đe dọa bên ngoài để báo cáo đầy đủ cho các sĩ quan chỉ huy.

30. Một nhân viên CATCC đang làm việc trên tàu USS Kitty Hawk.

31. Theo dõi màn hình trong CDC trên tàu USS Carl Vinson ở vịnh Ba Tư.
6. Khoang chứa máy bay
Sàn tàu chỉ chứa được một số lượng nhỏ các máy bay chiến đấu, nhưng không thể đủ chỗ đóng quân cho 80 đến 100 chiếc. Khi không được sử dụng, hầu hết các máy bay được bảo quản trong khoang chứa máy bay (Hangar Bay).
Các khoang chứa máy bay nằm ở dưới sàn thứ hai, ngay dưới sàn bếp, với chiều rộng 34m, chiều cao 8m và chiều dài lên tới 209m, chiếm hơn 2/3 chiều dài của con tàu. Nó có thể đủ chỗ cho 60 chiếc máy bay cũng như phụ tùng động cơ phản lực, nhiên liệu, các thiết bị nặng nề khác và được phân chia thành bốn khu nhờ các cánh cửa đặc biệt (để tránh các đám cháy lây lan).

32. Khoang chứa máy bay trên tàu USS Dwight D. Eisenhower
Có bốn thang máy khổng lồ nằm xung quanh khoang chứa để di chuyển các máy bay từ sàn tàu xuống và ngược lại. Những thiết bị thủy lực tốc độ cao làm bằng nhôm cao cấp này đủ lớn và mạnh để nâng hai chiếc máy bay chiến đấu nặng 34.000kg một cách nhẹ nhàng.

33. Thang máy trên tàu USS George Washington đang chuyển hàng xuống khoang.
Phía sau của khoang chứa máy bay (nằm sát đuôi tàu) là Phòng bảo trì máy trung gian (Aircraft Intermediate Maintenance Division - AIMD). Có cả nam giới và nữ giới liên tục sửa chữa, kiểm tra các thiết bị bay để đảm bảo tình trạng máy móc luôn ở trong trạng thái ổn định. Đi qua phòng AIMD là khu vực thử nghiệm động cơ cho chân vịt, đây là nơi các thủy thủ bảo trì động cơ phản lực cực kỳ an toàn.

34. Thử nghiệm động cơ cho F-14 trên tàu USS Kitty Hawk
Thường thì siêu hàng không mẫu hạm được chế tạo rất hợp lý để có thể thực hiện việc cất cánh và hạ cánh cho hàng chục chiếc tiêm kích. Một chiếc siêu tàu thường có chín phi đội trên tổng số 70 đến 80 chiếc chiến đấu cơ. Đáng chú ý nhất trên siêu tàu là những loại sau :
F/A Hornet: máy bay tiêm kích một chỗ ngồi, được thiết kế để sử dụng tấn công các mục tiêu cả trên không trung và mặt đất.
F-14 Tomcat (mèo đực): máy bay siêu âm 2 động cơ, 2 chỗ, cánh cụp cánh xòe dùng để do thám, ném bom và đánh chặn trên không. Tuy nhiên, Mèo đực đã bị loại khỏi biên chế từ năm 2006 và thay vào đó là chiếc F/A-18E/F Super Hornet có tính năng tương tự nhưng vượt trội hơn về sức mạnh.
E-2 Hawkeye: siêu máy bay do thám, phân tích chiến thuật có thể hoạt động trong mọi thời tiết (radar được trang bị trên em này có thể làm nhiễu hệ thống điện tử của đối phương).
S-3B Viking: máy bay phản lực cận âm chủ yếu để đối phó với tàu ngầm đối phương, cứu nạn… Tuy nhiên S-3B hiện đã trở thành quá khứ và được thay thế bằng MH-60 tối tân và hiện đại hơn.
EA-6B Prowler: dùng trong chiến tranh điện tử có nhiệm vụ là rà soát, phá hủy hệ thống radar và truyền thông của đối phương.
SH-60 Seahawk: trực thăng hai động cơ chủ yếu để tấn công tàu ngầm và cứu hộ.
7. Cuộc sống thường ngày trên tàu sân bay
Các siêu hàng không mẫu hạm thường mọi người ca ngợi như một thành phố trên biển với khoảng 5.000 đến 6.000 nhân viên làm việc, thư giãn, ăn và ngủ trong nhiều tháng trời. Tuy nhiên, cách thức hoạt động của nó không giống với bất kỳ thành phố nào khác ở trên đất liền.

35. Các thủy thủ đang rửa sàn bay trên tàu USS George Washington.
Điểm đầu tiên là các nhân viên ở đây ít có cơ hội tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Sàn bay, khoang chứa, phòng máy, biển và bầu trời tuy là những địa điểm tuyệt vời để tham quan, nhưng đối với họ thì việc này khá nguy hiểm, chỉ vài người có đủ quyền hạn mới thực hiện được, còn hầu hết đều rất bận rộn với công việc. An ninh được thắt chặt rất kỹ lưỡng, các hoạt động nhạy cảm và không gian hạn chế khiến bạn sẽ không biết ai vừa đến hay ai vừa đi. Một thủy thủ có thể làm việc dưới boong tàu cả tháng trời mà không được nhìn ánh sáng ban ngày cũng như xem phim HD.
Không gian của hầu hết các khu vực trên tàu đều chật hẹp hơn so với một thành phố bình thường. Các nhân viên luôn phải đi trong tư thế thẳng đứng và không thể đi song hành trong một hành lang hẹp. Chỗ ngủ là nơi đông đúc nhất, các thành viên sẽ chia sẻ không gian với khoảng 60 người khác trên một… chiếc giường duy nhất, thường được gọi là giá đỡ (racks) và cứ 3 người thì được sở hữu một ngăn. Mỗi người được một ca bin nhỏ dùng để thay và xếp quần áo, thậm chí quần áo và đồ dùng cá nhân cũng phải xếp thẳng đứng, mỗi khoang tàu sẽ được bố trí một phòng tắm và một khu vực nhỏ để xem TV. Mấy anh chàng sĩ quan thì được tận hưởng nhiều không gian và đồ nội thất hơn, tuy nhiên so với chúng ta thì nó vẫn còn quá nhỏ.

36. Tập bắn trên tàu USS Independence.

37. Đón giao thừa 2011 trong khoang chứa máy bay của tàu USS Theodore Roosevelt.
Công việc trên này cũng khá đa dạng như trong các thành phố khác. Có khoảng 2.500 đàn ông và phụ nữ sẽ thực sự lái máy bay và duy trì các hoạt động bay. 3.000 người còn lại sẽ phải làm cho con tàu luôn hoạt động ổn định bao gồm rửa chén, nấu ăn, sửa chữa vũ khí, hay "trang điểm" cho các lò phản ứng hạt nhân…
Con tàu có tất cả mọi thứ để cư dân của nó duy trì sự sống. Mặc dù không được thoải mái nhưng họ cũng có nhà bếp, nhà ăn tập thể đủ phục vụ cho 18.000 bữa ăn trong một ngày. Ngoài ra còn có các thứ khác như cơ sở giặt ủi, nha sĩ và bác sĩ, các cửa hàng và bốt điện thoại giúp các thành viên liên lạc với người thân thông qua vệ tinh.

38. Trên ảnh là hai người lính đang "vui vẻ" nói chuyện qua điện thoại từ tàu USS Harry S. Truman.
Cuộc sống trên một tàu sân bay không thể phủ nhận những khó khăn và áp lực, nhưng nó cũng đầy lạc quan. Tốt và xấu, ở đây cũng giống như bất cứ nơi nào trên hành tinh chúng ta.
8. Danh sách các tàu sân bay lớp Nimitz hiện đang hoạt động của hải quân Mỹ:
CVAN-68 Nimitz (1975)
CVN-69 Dwight D. Eisenhower (1977)
CVN-70 Carl Vinson (1981)
CVN-71 Theodore Roosevelt (1986)
CVN-72Abraham Lincoln (1989)
CVN-73George Washington (1992)
CVN-74John C. Stennis (1995)
CVN-75Harry S. Truman (1998)
CVN-76Ronald Reagan (2003)
CVN-77George H.W. Bush (2009)
Hải quân Mỹ là đội quân tinh nhuệ và mạnh mẽ nhất thế giới, luôn có được cảm giác phê tột cùng với những vũ khí tối tân, hiện đại. Nhưng trên hết, đó là lòng yêu nước đang hiện hữu trong từng giọt máu của họ.

(Theo hdvietnam)

Tìm hiểu về tàu sân bay lớp Nimitz (phần 1)

1. Giới thiệu

1. Siêu hàng không mẫu hạm USS Nimitz (CVN-68) tại gần vùng biển San Diego
Một khi cần gây sự chú ý của ai đó, ví dụ như thằng cha đầu trộm đuôi cướp ở gần nhà chúng ta chẳng hạn, thì Hải quân Mỹ thường đẩy một chiếc siêu hàng không mẫu hạm ra trước mắt họ và nói rằng "Mày thấy gì không?!".
Cao khoảng 20 tầng và kéo dài tới 1.092 feet (khoảng 333 mét), chiếc tàu này là một trong những thứ gây nhiều cảm hứng cảm xúc nhất trên hành tinh. Nhưng điều tuyệt vời về siêu phẩm này không nằm ở kích thước, mà đó là cảnh tượng "dữ dội" trên sàn bay của nó. Khi các thủy thủ bắt đầu công việc, họ có thể làm cho một chiếc máy bay cất cánh chỉ trong vòng 25 giây - tất cả chỉ diễn ra tích tắc trên một đường băng hơi bị "khiêm tốn".
Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu về tàu sân bay lớp Nimitz hiện đại nhất của Hải quân Mỹ. Hãy cùng xem qua thiết kế của các tầng, khám phá cách thức mấy chiếc máy bay cất cánh hay tiếp đất và "soi mói" một chút về cuộc sống hàng ngày trên các căn cứ quân sự nổi này. Chắc chắn bạn sẽ thấy rằng những chiếc tàu sân bay hiện đại này là một trong những phương tiện tuyệt vời nhất từng được tạo ra.

2. USS George Washington băng qua Đại Tây Dương để trở về căn cứ sau khi hoàn thành nhiệm vụ tại Afghanistan.
Ở cấp độ cơ bản nhất, một tàu sân bay đơn giản chỉ là chiếc thuyền lớn được trang bị một đường băng ở trên để các máy bay cất cánh hoặc hạ cánh. Sau 10 năm kể từ chuyến bay lịch sử của anh em nhà Wright vào năm 1903, Mỹ, Anh và Đức đã phát động các chuyến bay thử nghiệm cất cánh từ các tàu tuần dương trên biển. Phần lớn những cuộc thử nghiệm đều thành công và các lực lượng hải quân đã bắt đầu nghĩ đến việc chế tạo các tàu chiến phù hợp với mục đích này. Các tàu sân bay mới cho phép lực lượng quân sự vận chuyển các máy bay tầm ngắn ra toàn thế giới.
Các xưởng đóng tàu đã không được để ý trong thế chiến thứ nhất, tuy nhiên kể từ thế chiến thứ hai thì chúng đã trở thành trung tâm cuộc chạy đua vũ trang. Điển hình như cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng năm 1941 do người Nhật thực hiện từ tàu sân bay. Ngày nay, tàu sân bay là một phần quan trọng không thể thiếu cho các hoạt động quân sự lớn của Mỹ. Tuy nhiên, bản thân tàu không phải là vũ khí hữu dụng để tấn công, mà các phương tiện khí tài trên mình nó mới là điểm quyết định giữa thắng và thua.
Một trong những trở ngại của việc sử dụng sức mạnh không quân trong chiến tranh đó là điểm đến của chúng. Để duy trì một căn cứ không quân ở ngoài lãnh thổ thì Hoa Kỳ (hoặc bất kỳ nước nào khác) đều phải có những cuộc sắp xếp hết sức đặc biệt với chủ nhà, đi theo đó là phải chấp hành luật lệ của nước sở tại và luật pháp thì thường xuyên được thay đổi, bổ sung. Điều này khiến Hoa Kỳ gặp rất nhiều kỳ khó khăn ở một số quốc gia.
Theo luật quốc tế về Tự do hàng hải, tàu sân bay và tàu chiến khác đều được công nhận là "vùng lãnh thổ có chủ quyền" trên tất cả các đại dương, miễn là không được quá gần bờ biển của một quốc gia nào đó. Vì vậy khi ở trên tàu, có nghĩa là các thủy thủ đang đứng trên "đất" của mình.
Một hạm đội tàu sân bay (Carrier Battle Group - CVBG) thường bao gồm một "đại ca" tàu sân bay đi kèm với các "tiểu đệ" tàu áp tải (6 đến 8 hoặc hơn nếu cần thiết). Hạm đội này có thể di chuyển với vận tốc hơn 35 knots (64 km/h), cho phép chúng đi tới bất cứ nơi nào trên các đại dương chỉ trong vòng một vài tuần. Hiện Hoa Kỳ có khoảng 6 hạm đội tàu sân bay đang đóng quân ở trên khắp thế giới và luôn ở trong trạng thái sẵn sàng di chuyển, hành động.

3. "Đại ca" USS Abraham Lincoln và các "đàn em" của nó.

4. Bốn anh em: USS John C. Stennis, FS Charles de Gaulle, HMS Ocean và USS John F. Kennedy đang lượn lờ cùng nhau.
2. Các bộ phận chính của tàu sân bay
Với khoảng hơn một tỷ các thành phần, lớp tàu Nimitz của Mỹ là một trong những "món hàng" phức tạp nhất quả đất. Tuy nhiên ở cấp độ khái niệm, chúng là những thứ tương đối đơn giản, được thiết kế để làm bốn công việc sau:
- Vận chuyển các máy bay
- Giúp máy bay cất cánh và hạ cánh
- Phục vụ như là một trung tâm chỉ huy quân sự di động
- Làm nhà cho tất cả thủy thủ
Để thực hiện các nhiệm vụ này, tàu sân bay phải kết hợp các yếu tố: một con tàu, một căn cứ không quân và một thành phố thu nhỏ lại với nhau. Để làm tốt điều đó, những thứ cần thiết sẽ là:
Sàn bay: bề mặt phẳng nằm trên cùng, nơi mà những chiến đấu cơ có thể bay lên hoặc hạ xuống một cách dễ dàng.
Khoang chứa máy bay: khu vực dưới boong để cất giữ, bảo quản máy bay.
Trung tâm điều khiển: một tòa nhà nằm trên sàn tàu, nơi các sĩ quan có thể điều hành hoạt động của tàu và máy bay.
Các căn phòng: cho các thành viên trên tàu sống và làm việc.
Máy phát điện và động cơ đẩy: cung cấp năng lượng và di chuyển tàu.
Các hệ thống khác: cung cấp lương thực, nước ngọt và xử lý những vấn đề giống trên đất liền như nước thải, thư, đài phát thanh, truyền hình, báo chí…
Thân tàu: bộ phận chính giúp tàu nổi trong nước.
Sau đây là hình ảnh mô hình tàu sân bay:

Hình 05

Hình 06
Thân tàu được làm từ thép tấm, vô cùng cứng với độ dày lên đến vài inch (1 inch = 2,54cm). Điều này nhằm tăng cường hiệu quả bảo vệ và chống cháy. Thân tàu được hỗ trợ bởi ba hệ thống với cấu trúc nằm ngang là các xương sống bằng sắt (keel), sàn bay và boong chứa máy bay.
Phần dưới được làm theo hình tròn, tương đối hẹp, trong khi phần trên được trải rộng ra nhằm tạo không gian thoải mái cho các chiến đấu cơ. Phần dưới được chế tạo theo kiểu "đáy đôi" bao gồm hai lớp thép mạ cách nhau một khoảng rộng, điều này nhằm tránh để ngư lôi đánh chìm tàu (nếu ngư lôi chạm vào đáy tàu thì nó chỉ đục thủng được một lớp).
3. Chế tạo tàu sân bay
Bắt đầu từ năm 1950, gần như tất cả các siêu tàu của Mỹ đều được chế tạo tại Northrop Grumman Newport News (thuộc Newport News, bang Virginia). Để công việc được hiệu quả hơn, hầu hết chúng được lắp ráp từ từng mô-đun riêng biệt được gọi là superlif. Mỗi superlift gồm nhiều ngăn (phòng) và có thể nặng từ 80 – 900 tấn. Một siêu tàu có thể phải sử dụng tới 200 superlift riêng biệt.

Hình 07

8. USS Ronald Reagan đang được xây dựng tại Northrop Grumman Newport News.
Trước khi lắp ráp, các mô-đun đã được hoàn thiện phần khung thép, bao gồm tất cả các hệ thống dây điện và ống dẫn nước. Sau đó các kỹ sư sử dụng những cần trục khổng lồ để ghép các mô-đun lại một cách chính xác và hàn các mối tiếp xúc lại với nhau. Mục cuối cùng của công việc lắp ráp sẽ là đưa tháp chỉ huy nặng 575 tấn lên sàn tàu.

Hình 09

10. Lắp đặt các superlift vào vị trí để tạo thành USS Harry S. Truman.
Giống như các loại tàu thuyền có động cơ khác, tàu sân bay di chuyển bằng cách sử dụng lực đẩy thông qua chân vịt. Tất nhiên với bốn cái chân vịt, mỗi cái có chiều khoảng 6,4 mét. Chúng sẽ cần tới nhiều năng lượng hơn từ tua-bin hơi chạy bằng lò phản ứng hạt nhân.
Hai lò phản ứng hạt nhân được đặt trong rất nhiều lớp thép siêu bền ở giữa thân tàu sẽ tạo ra một áp suất hơi nước "vĩ đại" làm quay những chiếc quạt trong tua-bin khổng lồ và thông qua trục truyền động sẽ làm quay những chiếc chân vịt phía sau tàu. Hải quân Mỹ đã không công bố một con số chính xác của lực đẩy mà bốn chiếc chân vịt tạo ra, nhưng ước chừng nó cũng phải vượt quá 280.000 mã lực.
Bốn tua-bin cũng được tận dụng để tạo ra dòng điện phục vụ các thiết bị khác trên tàu. Trong đó có cả một nhà máy khử muối có thể biến 1,5 triệu lít nước mặn thành nước ngọt mỗi ngày, vừa đủ để phục vụ cho 2000 hộ gia đình.
Không giống như các tàu sân bay chạy bằng dầu đời cũ, tàu sân bay hạt nhân có thể đi lại 15 đến 20 năm mà không cần tiếp nhiên liệu. Đánh đổi cho sự tiện lợi này sẽ là nguy cơ cho một cuộc khủng hoảng hạt nhân trên biển. Do đó các lò phản ứng của các siêu hạm được bảo vệ và giám sát rất chặt chẽ.
Một vài con số biết nói đến từ USS Theodore Roosevelt (CVN-71), một tàu sân bay thuộc lớp Nimitz:
Code:
Chiều cao: 74 mét, tương đương một tòa nhà 24 tầng trên đất liền
Trọng tải: 97.000 tấn
Trọng lượng kết cấu thép: 60.000 tấn
Tổng diện tích sàn tàu: 1,8ha (18.000 m2)
Chiều dài sân bay: 333 mét
Chiều rộng (tại điểm rộng nhất): 78 mét
Số khoang trên tàu: hơn 4000
Trọng lượng mỗi liên kết trong dây xích của neo: 160kg
Trọng lượng của mỗi chân vịt: 30.000 kg
Trọng lượng của mỗi bánh lái: 45,5 tấn
Dung lượng của kho hàng: 12,5 triệu lít
Số lượng điện thoại: hơn 2.500 chiếc
Sỗ lượng TV: hơn 3.000 chiếc
Tổng chiều dài của cáp điện: hơn 1.600 km
Điều hòa nhiệt độ: đủ để làm mát cho 500 gia đình
Thực phẩm dự trữ trong tủ lạnh và thực phẩm khô đủ nuôi sống 6.000 người trong vòng 70 ngày
Số lượng thư từ trao đổi hàng năm: khoảng 450.000 kg
Nha sĩ: 5 người
Bác sỹ: 6 người
Giường bệnh: 53 chiếc
Số lượng cắt tóc mỗi tuần: hơn 1.500
4. Cất cánh trên tàu sân bay
Làm việc trên đường băng của tàu sân bay là những công việc đầy hứng khởi và nguy hiểm nhất trên thế giới. Sàn tàu trông thì giống như một đường băng bình thường, nhưng cách thức hoạt động thì rất đặc biệt bởi kích thước khiêm tốn của nó. Các thủy thủ phải làm việc trong lúc máy bay đang cất cánh hoặc hạ cánh ở tốc độ "kinh hoàng" với một không gian hạn chế. Một khoảnh khắc bất cẩn là có thể sẽ bị động cơ máy bay chiến đấu hút vào và tạo ra một vụ nổ khủng khiếp.
Môi trường trên boong tàu là cực kỳ nguy hiểm đối với các thủy thủ, nhưng chỉ đối với thủy thủ thôi nhé, còn các phi công thì họ đi ra đi vào dễ dàng nhờ sự hỗ trợ của một số thiết bị đặc biệt.

11. A-6E Intruder chuẩn bị ra đường băng trên tàu USS George Washington
Máy bay cần các luồng không khí di chuyển nhằm tạo lực nâng và để dễ dàng cất cánh hơn, bởi những chiếc tàu có thể tăng tốc trên đại dương, ngược chiều gió làm tăng lượng không khí chuyển động và làm giảm tốc độ tối thiểu để cất cánh của máy bay.
Những ngọn gió thì thường thơ mộng và cần thiết cho các chuyến bay, thế nhưng sự hỗ trợ chính cho các phi cơ lại đến từ bốn bệ phóng. Các thiết bị này giúp máy bay tăng tốc một cách nhanh chóng ở khoảng cách rất ngắn. Mỗi bệ phóng bao gồm hai pittông đặt trong hai xi lanh nằm song song ở dưới boong tàu. Hai pittông được gắn hai tai kim loại có thể di chuyển trên rãnh hẹp của xi lanh. Hai chiếc tai này sẽ có một cái chốt để gắn với bánh xe máy bay.

12. Một trong những chiếc tai bằng kim loại trên tàu USS John Stennis.
Để chuẩn bị cất cánh, các thủy thủ gắn bánh xe máy bay và chốt lại với nhau rồi nâng tấm bảo vệ phía sau lên nhằm vừa làm đổi hướng luông khí nóng thoát ra từ động cơ phản lực (mỗi loại máy bay có một tấm bảo vệ riêng) vừa giúp tạo ra lực đẩy lớn hơn để máy bay cất cánh.

13. Một thủy thủ đang kiểm tra chiếc F-14 Tomcat trên tàu USS George Washington.
Sau khi tất cả đã ở đúng vị trí và các cuộc kiểm tra cuối cùng đã xong, một sĩ quan chỉ huy sẽ cầm súng đạn cao su, sẵn sàng bắn khi có hiệu lệnh từ phòng kiểm soát nhô lên trên đường băng.

14. Hơi nước bốc lên do chiếc F/A-18C Hornet đang khởi động trên tàu USS George Washington. Bạn có thể thấy viên sĩ quan đang cầm súng.

15. F-14 Tomcat trên tàu USS Nimitz lao vút đi một phần nhờ phản lực của tấm chắn phía sau.
Đùng! Hiệu lệnh phát ra từ tiếng súng, các sĩ quan điều hành sẽ mở van để hơi nước có áp suất cao từ lò phản ứng hạt nhân tràn vào xi lanh. Hơi nước sẽ cung cấp năng lượng cần thiết giúp đẩy các pittông lao đi ở tốc độ cao, tai kim loại gắn liền pittông giúp máy bay phóng về phía trước. Khi đạt tốc độ cần thiết, những chiếc chốt tự động mở ra để cho máy bay bay vút lên bầu trời.
Việc kiểm soát áp suất hơi nước là cực kỳ quan trọng, nếu áp suất quá thấp thì sẽ không đủ lực để máy bay cất cánh và bị rơi xuống biển, còn nếu áp suất quá cao thì các thiết bị bên trong lẫn bên ngoài sẽ tan tành trước khi nó bay lên bầu trời. Hệ thống này hoàn toàn có thể giúp một chiếc phi cơ nặng 20.000 kg tăng tốc từ 0 lên 266km/h trong 2 giây.

16. F/A-18 Hornet cất cánh từ USS George Washington.
Nếu mọi thứ suôn sẻ, phi cơ sẽ có đủ tốc độ để tạo ra lực nâng giúp nó cất cánh. Còn nếu không, thì phi công (hoặc các phi công) sẽ kích hoạt một thiết bị làm cho chiếc ghế ngồi bắn ra khỏi phi cơ trước khi nó rơi xuống biển (thật may là điều chưa từng xảy ra, tuy nhiên nguy cơ thì luôn rình rập).
5. Hạ cánh trên tàu sân bay
Nếu như cất cánh là một công việc nguy hiểm nhất của các thủy thủ, thì hạ cánh trên tàu sân bay là việc khó khăn nhất đối với các phi công. Những chiếc máy bay chỉ có khoảng 150 mét đường băng để hạ cánh, như vậy là không đủ cho một con "quái vật" đang lao xuống với vận tốc lớn.
Để tiếp đất an toàn, mỗi chiếc máy bay sẽ được trang bị một cái móc ở sau đuôi gọi là tailhook. Mục tiêu của các phi công là móc tailhook và bốn sợi dây hãm (arresting wires) được căng ngang và làm từ thép cường lực.

17. ES-3A Shadow hạ cánh trên USS George Washington.
Hai đầu sợi dây hãm được nối với hệ thống xi lanh thủy lực đặt ở dưới boong. Khi tailhook "chộp" được sợi dây và kéo đi, hệ thống xi lanh thủy lực sẽ hấp thụ năng lượng giúp chặn máy bay lại. Hệ thống dây hãm này có thể chặn đứng một chiếc máy bay 24.500kg đang lao đi với vận tốc 244km/h trong vòng 2 giây với khoảng cách 96 mét.

18. Tailhook của KA-6D Intruder chuẩn bị móc vào dây hãm trên USS Dwight D. Eisenhower.

19. F/A-18C Hornet chộp được dây hãm trên USS Nimitz rồi nhé!
Có bốn sợi dây hãm song song lần lượt cách nhau 15 mét, mang đến sự lựa chọn phong phú cho phi công. Tuy nhiên, các phi công thường nhắm vào sợi dây số 3 bởi đó là mục tiêu an toàn và hiệu quả nhất. Sợi dây thứ nhất sẽ không bao giờ được lựa chọn, bởi nó quá gần mép boong, quá nguy hiểm cho việc hạ cánh. Có thể tạm chấp nhận được đối với những ai lựa chọn dây số 4 và dây số 2, tuy nhiên để thực sự có "số má", các phi công phải chộp được dây số 3.
Để tránh được những hiểm họa bất thường, phi công cần tiếp đất chính xác ở các góc phía bên phải. Các máy bay sẽ bay vòng tròn (chính xác hơn là hình bầu dục) phía trên tàu. Các sĩ quan ở trung tâm điều khiển bay phía dưới sẽ quyết định thứ tự hạ cánh của từng chiếc dựa trên mức nhiên liệu còn trong bình, những chiếc còn ít nhiên liệu nhất sẽ xuống trước.
Các sĩ quan hưỡng dẫn phi công hạ cánh nhờ các tín hiệu từ sóng radio và ánh sáng từ hệ thống đèn ở trên boong.

20. Một sĩ quan đang hưỡng dẫn phi công hạ cánh trên USS George Washington.
Ngoài việc tiếp nhận thông tin từ phòng điều khiển, phi công cũng có thể quan sát hệ thống hạ cánh nhờ thấu kính quang học Fresnel, mà họ thường gọi là thấu kính (cho gọn). Hệ thống này bao gồm rất nhiều đèn kết hợp với các thấu kính Fresnel, tất cả được gắn trên một con quay hồi chuyển (gyroscopically stabilized) cố định. Các thấu kính sẽ hội tụ ánh sáng thành chùm tia hẹp và hướng chúng lên bầu trời ở các góc độ khác nhau.
Các phi công sẽ thấy ánh sáng từ đèn khác nhau tùy thuộc vào vị trí của từng máy bay. Nếu máy bay được lệnh chuẩn bị hạ cánh, phi công sẽ thấy ánh sáng màu hổ phách (được đặt tên là "thịt viên") xuất hiện ngang hàng với đèn màu xanh. Nếu ánh sáng từ đèn màu hổ phách xuất hiện phía trên đèn màu xanh thì có nghĩa là chiếc máy bay đang đến có độ cao quá lớn và ngược lại, nếu ánh sáng màu hổ phách xuất hiện phía dưới đèn màu xanh thì chiếc máy bay đang đến quá thấp. Trường hợp cuối cùng là một chiếc máy bay đang đến có độ cao thấp hơn boong tàu thi phi công sẽ thấy màu đỏ xuất hiện.

21. Hệ thống đèn tín hiệu trên USS John F. Kennedy.

22. Sơ đồ minh họa.
Ngay khi máy bay chạm boong tàu, phi công phải tăng tốc hết cỡ (chứ không phải làm chậm lại). Điều này nghe có vẻ ngược đời nhưng nó thực sự khoa học bởi nếu như tailhook không "chộp" được sợi dây hãm thì máy bay vẫn đủ tốc độ để cất cánh, bay vòng lên và hạ cánh lại lần nữa. Đường băng được thiết kế nghiêng 14 độ so với phần còn lại của con tàu, nhờ vậy các máy bay sẽ dễ dàng cất cánh hơn khi chộp hỏng dây hãm.
Ngay sau khi hạ cánh, các máy bay sẽ được kéo ra khỏi đương băng và bị "xích" lại một bên. Điều này vừa tránh việc "rơi rớt" xuống biển, vừa đảm bảo tính sẵn sàng chiếc đấu cho các phi công.
Các thủy thủ đã được huấn luyện để đối mặt với những tình huống bất ngờ, bao gồm cả giả thiết là tàu sân bay cháy "tưng bừng khói lửa". Trong quá trình cất cánh và hạ cánh, có rất nhiều thiết bị an toàn luôn ở trạng thái sẵn sàng, trong số đó có một chiếc xe cứu hỏa nhỏ, vòi phun nước và các thiết bị chữa cháy khác.

23. S-3A Viking gặp trục trặc nên phải hạ cánh nhờ một chiếc hàng rào đặc biệt trên tàu USS Abraham Lincoln.
Các nhân viên hỗ trợ bay cũng phải đối mặt với nguy cơ bị động cơ phản lực thổi xuống biển. Một vài hệ thống lưới an toàn được dựng lên cung cấp những bảo vệ căn bản. Tuy nhiên, để thật sự an toàn thì các nhân viên phải mặc áo phao có thể tự bơm hơi và tích hợp một chiếc đèn tự nhấp nháy khi tiếp xúc với nước. Ngoài ra, họ còn phải mang một chiếc mũ bảo hiểm nặng trịch được gọi là cranial (hộp sọ) để bảo vệ đầu và các thiết bị liên lạc.
(Còn tiếp...)