Thứ Ba, 30 tháng 4, 2013

Ngày Quốc tế Lao động 1-5

Ngày Quốc tế Lao động hay ngày 1 tháng 5 là ngày lễ kỷ niệm của phong trào công nhân quốc tế. Vào các ngày 1 tháng 5, tại nhiều nước trên thế giới, có khi tại Mỹ và Canada, thường có các cuộc biểu tình trên đường phố của hàng triệu người lao động và các tổ chức công đoàn của họ. Vào ngày này, các phong trào cộng sản, cánh tả, các tổ chức theo chủ nghĩa vô chính phủ cùng với các công đoàn liên minh thực hiện các cuộc tuần hành trên đường phố yêu cầu mở rộng các quyền lao động và an sinh xã hội.



Lịch sử:
Năm 1883, tại thành phố công nghiệp lớn Chicago, Đại hội Liên đoàn Lao động Mỹ thông qua nghị quyết nêu rõ: "...Từ ngày 1/5/1886, ngày lao động của tất cả các công nhân sẽ là 8 giờ". Sở dĩ ngày 1/5 được chọn bởi đây là ngày bắt đầu một năm kế toán tại hầu hết các nhà máy, xí nghiệp ở Mỹ. Vào ngày này, hợp đồng mới giữa thợ và chủ sẽ được ký. Giới chủ tư bản có thể biết trước quyết định của công nhân mà không thể kiếm cớ chối từ.
Ngày 1/5/1886, do yêu cầu của công nhân không được đáp ứng một cách đầy đủ, giới công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago. Khoảng 40 nghìn người không đến nhà máy. Họ tổ chức mit-tinh, biểu tình trên thành phố với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!” Cuộc đấu tranh lôi cuốn ngày càng đông người tham gia. Cũng trong ngày hôm đó, tại các trung tâm công nghiệp khác trên nước Mỹ đã nổ ra 5.000 cuộc bãi công với 340 nghìn công nhân tham gia. Ở Washington, New York, Baltimore, Boston... hơn 125.000 công nhân giành được quyền ngày chỉ phải làm 8 giờ.
Các cuộc biểu tình bị đàn áp nặng nề. Giới chủ đuổi những công nhân bãi công, thuê người làm ở các thành phố bên cạnh, thuê bọn khiêu khích và cảnh sát đàn áp, phá hoại cuộc đấu tranh của công nhân. Đặc biệt, ở Chicago, cảnh sát đã xả súng vào đoàn người tay không, làm hàng trăm người chết và bị thương. Các xung đột xảy ra dữ dội khiến nhiều người chết và bị thương, nhiều thủ lĩnh công đoàn bị bắt... gây nên sự kiện thảm sát Haymarket năm 1886 tại Chicago, Mỹ. Nhưng cuối cùng, giới chủ phải chấp nhận yêu sách của công nhân.
Ngày 20/6/1889, ba năm sau "thảm kịch" tại thành phố Chicago, Quốc tế cộng sản lần II nhóm họp tại Paris (Pháp). Dưới sự lãnh đạo của Friedrich Engels, Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế Cộng sản II đã quyết định lấy ngày 1/5 hàng năm làm ngày biểu dương lực lượng và đấu tranh chung của tầng lớp vô sản các nước.


Tại Việt Nam:
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời (1930), giai cấp công nhân Việt Nam đã lấy ngày l/5 hàng năm làm ngày đỉnh cao của phong trào đấu tranh chống thực dân, đế quốc, giành độc lập - tự do - dân chủ, giành những quyền lợi kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám, việc kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1/5 phần nhiều phải tổ chức bí mật bằng hình thức treo cờ, rải truyền đơn. Năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận bình dân Pháp và Mặt trận dân chủ Đông Dương, ngày Quốc tế Lao động lần đầu tiên được tổ chức công khai tại Hà Nội, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Đặc biệt, ngày 1/5/1938, một cuộc biểu tình lớn gồm hàng chục ngàn người đã diễn ra ở khu Đấu xảo Hà Nội với sự tham gia của 25 ngành, giới: thợ hoả xa, thợ in, nông dân, phụ nữ, người cao tuổi, nhà văn, nhà báo... Đây là cuộc mit-tinh lớn nhất trong thời kỳ vận động dân chủ (1936 - 1939), một cuộc biểu dương sức mạnh đoàn kết của nhân dân lao động do Đảng lãnh đạo. Nó đánh dấu một bước trưởng thành vượt bậc về nghệ thuật tổ chức và lãnh đạo của Đảng ta.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, nước nhà độc lập, ngày 2/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh quy định công nhân, lao động được hưởng lương trong ngày ngày nghỉ Quốc tế Lao động 1/5 hàng năm. Cũng từ đó, ngày 1/5 được coi là một trong những ngày lễ chính thức hàng năm của Nhà nước ta.
Ngày nay, ngày Quốc tế Lao động đã trở thành ngày hội lớn của hai giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Đây cũng là ngày biểu thị tình đoàn kết hữu nghị với giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, cùng đấu tranh cho thắng lợi của hòa bình, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013

Bài thơ "Sóng vẫn đập vào eo biển" làm nức lòng 2 chiến tuyến Nam - Bắc


Trong lịch sử thơ văn cận đại, nhà thơ Lê Văn Ngăn và bài thơ “Sóng vẫn đập vào eo biển” là trường hợp duy nhất được cả hai bên chiến tuyến Nam - Bắc Việt Nam trân trọng.

Thi sĩ Lê Văn Ngăn.
Lê Văn Ngăn sinh năm 1944 ở làng Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên- Huế, hiện sống tại TP Quy Nhơn, Bình Định. Ông là một tiếng thơ vừa vang dội, vừa lắng đọng trong phong trào học sinh - sinh viên yêu nước trong các đô thị miền Nam trước 1975. Về già, thơ ông vẫn "sung", vẫn tả xung hữu đột…
Năm học đệ nhất (lớp 6 bây giờ) ông từng có thơ in trên Báo Phụ nữ Thứ bảy - Sài Gòn. 18 tuổi, ông viết bài "Người phu xe": "Cha đã lăn cho con những vòng xe / mồ hôi chảy xuống lấp lánh mặt trời/ đọ sức cùng thiên nhiên/ (…) Sao mà những nếp nhăn/ sao mà khuôn mặt héo…". Bài thơ này đã làm nhiều bạn bè của ông xúc động khôn xiết!
Thời sinh viên (khóa 3, năm 1964 - 1966) ở Trường Sư phạm Quy Nhơn, ông đã từng in ronéo tập thơ có tựa "Trên đồng bằng". Năm 1972, Đài Tiếng nói Việt Nam và Báo Văn nghệ phát đi bài thơ "Sóng vẫn đập vào eo biển", tờ Thống Nhất đăng bài "Đất của những người bất phục" khiến tên tuổi Lê Văn Ngăn được các kẻ sĩ Bắc Hà chia sẻ như một đồng chí trên cùng một chiến tuyến...
Năm 1972, lúc nghe Đài Tiếng nói Việt Nam phát sóng bài thơ của mình, anh lính tiếp vụ người Huế (lính hậu cần) của chính quyền Sài Gòn là Lê Văn Ngăn sung sướng đến bàng hoàng khi biết mình bị những người bên kia chiến tuyến… “đạo thơ”. Đến tận bây giờ, ông cũng không hiểu bài thơ của mình ra đến miền Bắc và lên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam bằng cách nào?
Thi sĩ quân ta “săn lùng” nhà thơ quân địch
Ngay khi mới ra đời, bài thơ ấy được những người yêu nước cả hai miền thấy trong đó như có cả nỗi lòng của mình: Tiếng sóng nơi em bắt nhịp với còi tàu Long Biên…./Cho nên tiếng bom nổ ở miền Bắc/Dù không nói, tôi cũng biết lòng em chấn động.
Bài thơ ấy nổi danh ngoài miền Bắc, các thi sĩ nhà ta trong đoàn quân giải phóng tiến vào Nam không ai không biết, nhưng mặt mũi Lê Văn Ngăn ra sao thì mù tịt. Sau khi giải phóng, bất ngờ “ngài” trung sĩ quân tiếp vụ của Việt Nam cộng hòa bị gọi lên, người gọi lên cũng là một nhà thơ, tất nhiên là “quân ta”, đó là thi sĩ Thanh Thảo, người hiện nay đang nổi tiếng về viết… bình luận bóng đá.
Gặp mặt lần ấy, Thanh Thảo chỉ hỏi “Anh là Lê Văn Ngăn hả? Vậy anh có biết một Lê Văn Ngăn làm thơ không?”, thi sĩ lừng danh của “quân địch” chỉ dám thưa “dạ! Tui là Lê Văn Ngăn và cũng có làm thơ” – “Vậy bài thơ “Sóng vẫn đập vào eo biển” và “Mảnh đất của những người bất phục” là của ai?” – “Dạ! Là tui làm ạ”… Vậy là khỏe! Chàng thi sĩ “quân địch” này được hẳn một chiếc xe Jeep hộ tống đưa về tận nhà. Ơn giời! Nhờ có giải phóng mà lần đầu tiên, Lê Văn Ngăn mới biết là làm thi sĩ nó oai thế nào?
Được Trịnh Công Sơn giác ngộ
Có một điều hiếm người biết, từ trước khi bài thơ lừng danh kia ra đời rất lâu thì trong lòng Lê Văn Ngăn đã rất nể trọng những anh lính Việt Cộng dù ông chưa một lần giáp mặt. Việc này bắt nguồn từ một câu chuyện kể của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Hoạt động nghệ thuật cùng lứa với các đồng hương Trịnh Công Sơn, Tôn Thất Lập… nhưng Lê Văn Ngăn “lặng lẽ như một kẻ thơ thẩn tìm thơ”, trong lòng ông lúc nào cũng dành một góc trang trọng cho người nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh mà ông luôn coi là bậc đàn anh đáng kính.
“Gần như không dám so sánh mình Trịnh Công Sơn mà thi sĩ họ Lê chỉ ngậm ngùi “anh Sơn là người hay, gia cảnh sang giàu, không vướng víu nên anh trốn đi lính Cộng hòa nhẹ như lông hồng. Còn moa vướng mẹ già, em dại, gia cảnh bần hàn nên không theo được anh Sơn. Đau dễ sợ!” - Thi sĩ Lê Văn Ngăn
(Theo Dân Việt)

Sóng vẫn đập vào eo biển - Lê Văn Ngăn

1.
Tôi thầm hỏi có phải em đang gửi lòng mình qua sóng biển
nhắn cho tôi biết
rằng nỗi đau đớn em vẫn còn mang nặng
Qui Nhơn Qui Nhơn đồng ruộng mía phía Tây
phất phới vườn bông gòn
những đầm nước mặn
im bóng cửa nhà
Qui Nhơn Qui Nhơn trên thảm nước xanh rờn của thuyền đánh cá và chim én
Buổi sáng hay chiều hôm từng chuyến phi cơ
tìm lòng em đáp xuống
dù em chỉ hiện ra bằng một dấu hiệu, ngọn đèn xanh, cánh cờ đo chiều gió
dù nắng rực rỡ trên các đỉnh đồi
dù mây tháng mười, không ngừng nghỉ, bay về một nơi khác
dù trên cao tôi nhìn thấy em
bình lặng
bày ra từng con đường, từng động mạch, những mái nhà rêu phủ, những chiếc áo cánh trên sợi dây phơi
chẳng phải em thiếu kín đáo, nhưng tôi biết em muốn gửi tới một điều gì
Qui Nhơn Qui Nhơn từng đêm bão cát thổi qua lòng em
và tôi, lặng lẽ dưới mái nhà
căng lòng mình ra như tấm áo
trên tấm áo ấy, bão cát chỉ gây ra lời hy vọng
che chở được em
giờ đây, đoàn quân xâm chiếm, theo từng nhịp cánh quạt ngừng, đổ bộ trên quê hương tôi
đã đặt trước mặt tôi những trại giam
giờ đây tôi không gần được em, nhưng tôi tin
nếu khi trở về thì khi nào tôi đến
em sẽ mở lòng em ra

Lòng em, những mái nhà tranh im lìm, nơi đó một quãng đời cũ
em còn cất giữ
và nếu một cuộc săn đuổi khác bắt đầu
em sẽ tự xé rách lòng em, che dấu những người bất khuất, những người đã gọi em
Quê hương quê hương, nơi trái tim tôi rung động dưới bầu trời sao
nơi tôi muốn nhắm mắt dưới lòng đất quen thuộc
lòng em, không chịu dừng chân ở ngã ba rẽ về liên tỉnh
không muốn rút mình bên này các ranh giới trước tham vọng của kẻ thống trị, em còn muốn
tiếng sóng nơi em bắt nhịp với còi tàu Long Biên
và những vườn hoa bưởi
những vại nước lấm tấm bông cau
cũng có mùi hoa gạo
cho nên tiếng bom nổ ở miền Bắc
dù không nói, tôi cũng biết lòng em chấn động

2
Sóng vẫn đập vào eo biển, chiều nay hay ngày trước
và lòng tôi, theo tiếng sóng của em, cũng chạy dài theo bãi cát
lang thang quanh những vùng yên lặng
dừng chân ở chiếc quán đông người
sóng vẫn đập vào eo biển
tiếng sóng dịu dàng và cương quyết
tiếng sóng chất chứa những gì khiến tôi xác tín một điều
vâng, điều ấy
chẳng có sức mạnh nào lay chuyển được
vâng, điều ấy
giữa những khung cửa đầy bóng tối, hàng me cao
giữa mùi bánh nướng báo tin một ngày quang đãng
giữa tiếng xe thổ mộ lúc bình minh, vẫn còn những kẻ phản bội em
vẫn còn những kẻ từng sống bên em, nay đã mặc cho những kẻ xâm chiếm dày vò
vẫn còn những kẻ man trá, những kẻ thỏa hiệp, những kẻ dã tâm yêu hết mọi giống nòi
vâng, điều ấy
khi bạo lực còn bắt tay nhau
khi bạo lực còn dẫn quân đi nhục mạ quyền làm người
khi ấy, bằng chất liệu gì để rửa sạch thân em
đây là điều tôi dứt khoát
quê hương quê hương, nơi trái tim tôi rung động dưới bầu trời sao
nơi tôi muốn nhắm mắt dưới lòng đất quen thuộc
chết cho tình yêu
đấy là việc của con người
bao nhiêu năm ở gần em, những chiếc phi cơ đáp xuống buổi mai
rời khi trời tối
bao nhiêu năm, những chiếc xe lam, những thỏi đường mới lọc, những bàn tay trong những bàn tay
bao nhiêu năm em chưa trả lời cho tôi biết
nhưng tôi tin
dù nơi nào, trong ngục tù hay giữa cánh đồng
bằng tín hiệu của sóng biển
em vẫn cần gọi tôi về, lấy thân làm vật cản che chở em

3
Qui Nhơn Qui Nhơn, đồng ruộng mía phía Tây
phất phới vườn bông gòn
những cửa hàng lấm bụi, những chiếc ga tạm hoang tàn, những người định cư, những người tứ chiếng
nơi em
quê hương chẳng phải điều trừu tượng
điều ấy, tôi giữ trong lòng
và đi xa em. Tiếng sóng vẫn đập vào eo biển.

(Báo Đối diện, số 33, tháng 3-1972)

Thực phẩm Trung Quốc - con đường dẫn đến địa ngục


(Nguoiduatin) - Tháng 9/2012, sông Dương Tử, đoạn chảy xuyên qua thành phố Trùng Khánh, tây nam Trung Quốc, đã bất ngờ chuyển thành màu đỏ vàng chỉ sau 1 đêm.
Quỷ satan dẫn lối doanh nhân Trung Quốc
Hỏi tại sao câu chuyện này lại liên quan đến thủy sản Trung Quốc mà bạn ăn ở Hoa Kỳ, hãy nhớ rằng chính những đống mùn rác trên dòng Dương Tử, cũng như nước từ những con sông Châu Giang và Hoàng Hà bất hạnh, đang đổ vào những cơ sở nuôi trồng thủy sản nhập cảng ở bờ Đông Trung Quốc. Lẽ dĩ nhiên, vì lươn, cá, tôm của Trung Quốc được nuôi trong điều kiện độc hại như vậy, các loài này sẽ bị nhiễm đủ loại vi trùng và ký sinh trùng.

Những tờ giấy màu đen này được Trung Quốc tẩm hóa chất
và bọc vào quả táo từ khi chúng mới ra quả.
Học giả Trung Quốc Lưu Thành Tâm (Liu Chenglin) ghi nhận: 'Các điều kiện để nuôi trồng thủy sản ở Trung Quốc thật tệ hại: Những người sản xuất dồn chặt vào bể nuôi hàng ngàn cá, tôm để có sản lượng cao nhất. Điều này tạo ra một lượng lớn chất thải làm ô nhiễm nước và truyền những bệnh có thể giết hết cả mẻ cá nếu không được giải quyết hợp lý. Cho dù căn bệnh không giết hết tôm cá trong bể nuôi, thì những loại vi trùng còn lại như Vibrio, Listeria, hay Salmonella vẫn có thể làm cho những người ăn phải tôm cá bị nhiễm bệnh'.
Để giải quyết điều kiện nuôi, những người nuôi cá Trung Quốc thường bơm đủ loại kháng sinh, kháng nấm, thuốc kháng vi rút và thuốc nhuộm bị cấm vào nước đã bị ô nhiễm. Những độc chất này, bao gồm từ chất nhuộm màu lục malachit, chloramphenicol, fluoroquinolones cho tới nitrofurans, thuốc ngừa thai, thuốc tím gentian không tránh khỏi việc ngấm vào thịt sinh vật. Chúng có thể gây ra đủ thứ bệnh từ ung thư, các bệnh hiếm gặp như bệnh thiếu máu cho tới việc làm suy giảm khả năng sử dụng kháng sinh chữa bệnh của cơ thể con người.
Trên cả những sự vi phạm trắng trợn này, các nhà máy chế biến thủy sản Trung Quốc còn thường xuyên dùng những chất như khí carbon monoxide để làm cho miếng cá có màu đỏ tươi. Việc này không những làm tăng vẻ ngoài hấp dẫn của sản phẩm mà còn che dấu được những sản phẩm đã hư thối. Bạn hãy nhớ kỹ trò lừa đảo nhỏ mọn này mỗi khi bạn thấy một miếng cá Trung Quốc đỏ tươi và nghĩ rằng nó được 'đông lạnh lúc còn tươi nguyên'.
Bằng mắt thường, người tiêu dùng không thể phân biệt thịt 'bẩn' khi đã được tẩm hóa chất.
Tất nhiên là ở Trung Quốc, 'cái gì người Mỹ dùng được thì thường lại không phải là cái mà dân Tàu dùng được'. Thật vậy, cái kiểu 'tô son điểm phấn' này chịu những hình phạt rất nặng nếu dùng cho thủy sản phục vụ thị trường nội địa Trung Quốc.
Bây giờ là điểm quan trọng hơn trong câu chuyện về thủy sản Trung Quốc – và mới thực sự là điều duy nhất bạn cần nhớ: Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ thiếu nhiều nhân viên đến nỗi mặc dù họ kiểm soát 80% nguồn cung thực phẩm của Hoa Kỳ, họ chỉ có thể kiểm tra dưới 1% thực phẩm nhập cảng. Chính vì lý do này mà mỗi khi bạn ăn bất cứ thứ gì xuất xứ từ Trung Quốc thì có nghĩa là bạn đang chơi 'trò may rủi chết người với thức ăn Trung Quốc' đấy. Và chính phủ Trung Quốc cũng như nhà chức trách Hoa Kỳ muốn nói thế nào cũng không thể cho bạn tin được là bảo đảm an toàn.
Gạo giả Trung Quốc gây suy thận, hỏng xương
Một vài công ty Trung Quốc hiện đang sản xuất và bán số lượng lớn gạo giả cho những dân làng không mảy may nghi ngờ (mời bạn xem thêm: Gạo Trung Quốc gây suy thận, hỏng xương). Theo một báo cáo đăng trên tờ Tuần san Hong Kong ấn bản tiếng Đại Hàn, những người sản xuất đã trộn khoai tây, khoai lang và nhựa công nghiệp để làm gạo giả. — Natural News
Chúng tôi có thể sẽ thiếu trách nhiệm khi kết thúc chương này mà không chia sẻ với bạn hai trong số những ví dụ về trò giả mạo sản phẩm vô liêm sỉ gần đây của Trung Quốc. Những ví dụ này đưa ra lời cảnh báo là nếu các thương gia Trung Quốc sẵn sàng làm giả đối với dân chúng của họ, thì sao chúng ta lại mong họ cung cấp cho mình những sản phẩm, thực phẩm và dược phẩm an toàn?
Kết quả điều tra của một tờ báo tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) cho biết gạo Trung Quốc gây suy thận, hỏng xương.
Ví dụ thứ nhất là về âm mưu làm gạo giả bán cho dân quê nghèo. Trong trò lừa lợi dụng lòng tin của người dân này, những kẻ làm giả trộn một hỗn hợp khoai tây và khoai lang rồi ép khuôn thành hình những hạt gạo. Sau đó nhựa tổng hợp được thêm vào để giữ nguyên hình cho hạt gạo. Kết quả là bạn có thể nấu thứ gạo này hàng giờ mà nó vẫn cứng và sượng. Một viên chức của Hiệp hội Nhà hàng Trung Quốc cho rằng ăn ba bát gạo quỉ quái này cũng bằng nuốt hết một cái túi plastic. Thế mà trước đây bạn cứ nghĩ là ăn cám lúa mì làm hư đường tiêu hóa!

Gạo Trung Quốc được làm bằng nhựa tổng hợp xuất ra nước ngoài, trong đó có Việt Nam
Trong ví dụ thứ hai, âm mưu rất phổ biến trong những tỉnh lớn của Trung Quốc, bao gồm các tỉnh Cam Túc, Hà Nam, Thanh Hải, Sơn Tây và Tứ Xuyên. Trong trò lừa đảo này, người ta thêm hương vị và mùi thơm giả vào gạo thường để làm cho nó có hương vị giống như loại gạo thơm Vũ Xương đắt tiền.
Chỉ cần thêm nửa ký hương thơm thì người chế biến gạo gian Trung Quốc có thể tạo mùi hương cho 10 tấn gạo. Âm mưu này bị bại lộ khi các phương tiện truyền thông Trung Quốc công bố một báo cáo thống kê khôi hài: Mỗi năm, nông dân trồng được 800,000 tấn gạo Vũ Xương, nhưng bán ra thị trường những hơn 10 triệu tấn!
Không hề thấy một sự hối hận nào từ thủ phạm của những trò lừa đảo này. Khi buộc phải đối chất, phát ngôn viên của một công ty bị bắt quả tang làm giả chỉ nói: 'Gạo giả bán rất chạy vì giá rẻ so với gạo thật'. Đây là lời của những kẻ vô đạo đức đội lốt doanh nhân.
Death by China - Chết vì tay Trung Quốc: Đây là một nguy cơ hết sức thật mà tất cả chúng ta giờ đây đều phải đối mặt, khi mà quốc gia đông dân nhất thế giới và sẽ sớm trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới nhanh chóng biến thành kẻ ám sát hiệu quả nhất hành tinh.

Tổng thống Nga - Vladimir Putin giữ lời hứa với một cô bé


(ĐVO) - Chính quyền khu vực Viễn Đông Nga vừa thông báo đã xây dựng sân chơi trẻ em cho một ngôi làng theo yêu cầu của Tổng thống Vladimir Putin như cam kết của ông với một cô bé trong cuộc trả lời dân trên truyền hình Nga hôm thứ năm tuần trước.

Tổng thống Vladimir Putin.
Theo RIA Novosti, một cô bé đến từ một gia đình đông con, phần lớn là con nuôi, ở vùng Primorsky đã xin tổng thống Nga một sân chơi cho ngôi làng của cô. “Tôi hứa là cô bé sẽ có một sân chơi, cô bé à” - ông Putin tuyên bố trên truyền hình trực tiếp.
Một giờ sau đó, chính quyền địa phương tuyên bố đã nhận được yêu cầu xây sân chơi và bắt tay làm việc ngay trong ngày. Đến ngày 27/4, sân chơi đã được hoàn thiện. “Ông Putin đã biến giấc mơ của một đứa trẻ nữa thành hiện thực” - RIA Novosti viết.
Đây không phải là lần đầu tiên ông Putin đáp ứng những thỉnh cầu hết sức bình thường của người dân. Cuối năm 2008, khi còn là thủ tướng, ông từng mời một bé gái ở Serbia đến điện Kremlin sau khi cô bé hỏi xin ông một bộ đồ mới.
Theo kết quả khảo sát của Interfax vào tháng 2/2013 ở 130 thị trấn và thành phố tại 45 khu vực ở Nga, 47% người dân tin rằng ông Putin sẽ giữ lời mà ông đã hứa trong cuộc tranh cử tổng thống.
Trước đó, nói về việc cấm quan chức chính phủ gửi tiền ở nước ngoài, Tổng thống Nga Vladimir Putin cho rằng, các tài khoản ngân hàng ở nước ngoài sẽ khiến người ta “phụ thuộc” vào chính phủ ở quốc gia mà họ gửi tiền. Nhận định trên được đưa ra trong cuộc trò chuyện trực tuyến với người dân kéo dài gần 5 giờ đồng hồ ngày 25/4.
“Tôi nghĩ tham nhũng nói chung, và đặc biệt là tham nhũng ở nước ta, tồn tại ở khắp mọi nơi. Tôi có thể đoán chắc điều này. Câu hỏi ở đây là nó nằm ở mức độ nào. Tôi không bác bỏ thực tế rằng tham nhũng hằng ngày ở Nga là cao và thật sự thể hiện một mối đe dọa đến toàn xã hội. Vì vậy, chúng ta sẽ đấu tranh với nó một cách dứt khoát không thua kém gì đấu tranh với lạm phát và phải diệt tham nhũng càng nhiều càng tốt”, Tổng thống Putin tuyên bố.
Được biết, đã có hơn 3 triệu câu hỏi được gửi đến Tổng thống Putin, gồm nhiều vấn đề từ những chuyện nhỏ như việc ông Putin yêu thích ca sĩ nào, bình luận gì về giá xăng, thỉnh cầu của một cô bé muốn có một sân chơi trong làng cho đến những vấn đề lớn hơn như khủng bố, tham nhũng, đường sá, quan hệ với Mỹ...

“Không ai lựa cửa để sinh ra!”


(Dân trí) - Đoàn kết là tinh thần và sức mạnh của dân tộc. Nó khởi nguồn từ truyền thuyết mẹ Âu Cơ đến nay với lời của Bác Hồ: “Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.


Nhân dịp 38 năm (30/4/1975 – 30/4/2013) ngày giang sơn về một mối, tinh thần đoàn kết, hòa hợp dân tộc lại được khơi gợi trong trái tim mỗi người con đất Việt ở mọi phương trời.
“Không ai lựa cửa để sinh ra!” là câu nói nổi tiếng của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt khái quát về tinh thần đại đoàn kết và hòa hợp hòa giải dân tộc. Bao năm qua, câu nói này đánh động đến suy nghĩ của nhiều người, không chỉ đối với người dân trong nước và kiều bào Việt Nam ở nước ngoài.
Trong cuốn sách “Võ Văn Kiệt – Đổi mới, bản lĩnh và sáng tạo” do Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân xuất bản 2006, ở một bài trả lời phỏng vấn báo chí, Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói: “Yêu nước có cả trăm hình thức thể hiện. Có một thời kỳ sự hẹp hòi, thành kiến và đố kỵ đã làm tổn thương tình cảm của dân tộc, xa rời truyền thông “thương người như thể thương thân”, làm ảnh hưởng không tốt đến tính đồng thuận xã hội. Thay vì phải làm sao giảm bớt nỗi đau của những gia đình Việt Nam có người thân bị ép phải cầm súng chống lại cách mạng, vì không thể “trốn lính” được và đã tử trận, thì cho đến bây giờ vẫn còn nhiều trường hợp bị phân biệt đối xử. Không ai lựa cửa để sinh ra. Vì vậy, chúng ta không nên khoét sâu thêm vết thương trong lòng mỗi người Việt Nam. Với những nước từng đưa quân đến xâm lược và đánh thuê trên đất nước ta, chúng ta còn khép lại quá khứ, đưa tay kết bạn huống chi là người nước mình. Mỗi người dân Việt Nam biết lo cho mình, cho gia đình mình và lo cho cái chung đều là sự đóng góp quý báu cho đất nước”.


Những người bị ép cầm súng vì không trốn lính được đó phải mang cái án suốt đời, đó là án “ngụy quân”. Còn người làm trong chính quyền cũ cũng mang cái án “ngụy quyền”. Trừ những người có nợ máu, có chính kiến chính trị, đa số người làm việc cho chế độ cũ chỉ vì họ phải làm và  phải sống. Không phải ai cũng có cơ hội hay điều kiện để lựa chọn cho mình con đường đi theo cách mạng.
Sự phân biệt đối xử kéo dài nhiều năm và khó có thể kể hết những tổn thất từ đó sinh ra. Sự tổn thất không chỉ đối với cá nhân mà đó là thiệt hại chung cho cả xã hội. Duy chỉ chủ nghĩa lý lịch thôi cũng vùi dập không biết bao nhiêu nhân tài hoặc người có năng lực. Có không ít học sinh thi đậu đại học nhưng không được học. Các em không thể “lựa cửa để sinh ra” nhưng phải chịu trách nhiệm về việc làm của cha mẹ mình.
Những người làm trong bộ máy chính quyền chế độ cũ, họ chỉ làm công việc thuần túy chuyên môn hoặc giáo sư giảng dạy đại học. Họ hồn nhiên nghĩ rằng, chế độ nào họ cũng được sử dụng như một người làm việc. Nhưng sau giải phóng, không ít người trong số họ không được làm đúng với trí tuệ, chuyên môn, thậm chí có người phải làm những công việc đơn giản như đạp xích lô, chạy xe ôm...
Chia rẽ không bao giờ mang ý nghĩa tích cực, nhưng đại đoàn kết vẫn chưa được đến sớm. Phải mất quá lâu để có được những chuyển biến trong nhận thức và hành động cụ thể. Một số người của chế độ cũ được sử dụng, nhiều sĩ quan, quan chức chế độ cũ từ nước ngoài trở về như cựu phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ. Những văn nghệ sĩ từng được cho là không ủng hộ chế độ cũng được hồi hương như nhạc sĩ Phạm Duy. Dần dần, bà con Việt nam ở hải ngoại là “khúc ruột ngàn dặm”, về quê hương đóng góp, xây dựng và không còn thấy có khoảng cách.
Cũng may cho dân tộc, 38 năm trôi qua, những từ như “bọn ngụy quân”, “lũ ngụy quyền”… chỉ còn trong những trang sách cũ. Những người từng bị phân biệt đối xử tuy không còn cơ hội để làm được gì cho bản thân và xã hội như khả năng họ có, nhưng ít ra họ cũng đã thoát khỏi mặc cảm bị phân biệt đối xử.
Giang sơn thu về một mối cách đây 38 năm, nhưng lòng người thu về một mối vẫn chưa trọn vẹn. Thế mới hay thành trì đất đai mới chỉ là một phần của giang sơn, phần còn lại là lòng người. Hòa hợp hòa giải dân tộc không chỉ mang ý nghĩa thiêng liêng mà còn tạo nên sức mạnh để xây dựng đất nước và để giữ nước.
Lê Chân Nhân

Sẽ còn nhiều doanh nghiệp chết lâm sàng


(Vnexpress) - Kinh tế 2013 có lóe sáng nhưng chưa phục hồi, còn nhiều doanh nghiệp bị loại khỏi thị trường. Nếu không có giải pháp, khu vực kinh tế tư nhân sẽ thu hẹp, ảnh hưởng tới sự phát chung, theo chuyên gia kinh tế Huỳnh Bửu Sơn.

Ông Huỳnh Bửu Sơn. Ảnh: PV
- Nhiều doanh nghiệp, chuyên gia nhận định kinh tế 2013 còn khó khăn. Quan điểm của ông về vấn đề này?
- Theo dự báo của ADB, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm nay 5,2%, lạm phát khoảng 7,5%, tất cả đều dưới một con số. Các tập đoàn Nhà nước từng bước tái cấu trúc, củng cố hoạt động kinh doanh nên nhập khẩu giảm và cán cân thương mại có thể thặng dư. Tuy nhiên, ngân sách Nhà nước có thể thâm hụt lớn hơn so với kế hoạch là 4,8%.
Kinh tế 2013 có lóe sáng đôi chút nhưng chưa thể hồi phục. Các ngân hàng khó khăn. Doanh nghiệp thiếu vốn cắt giảm sản xuất, khiến lợi nhuận giảm.
- 3 tháng đầu năm, chỉ tính riêng TP HCM có thêm 5.000 doanh nghiệp ngừng hoạt động. Theo ông, tình hình hoạt động của doanh nghiệp từ nay đến cuối năm sẽ ra sao?
- Sẽ còn nhiều đơn vị yếu kém biến mất khỏi thị trường. Doanh nghiệp Việt chết là do không trả được nợ. Ngoài ra có những công ty bỏ chi phí sản xuất cao nhưng hàng hóa không cạnh tranh được dẫn đến tồn kho lớn và kéo dài nên không kham nổi.
Hiện tượng doanh nghiệp chết lâm sàng vẫn còn nhiều. Nếu đà này không được chặn đứng, khu vực kinh tế tư doanh Việt Nam sẽ bị thu hẹp. Điều này rất đáng lo ngại vì nó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam trong tương lai.
- Vậy những lĩnh vực nào sẽ chịu nhiều thách thức nhất trong năm nay?
- Bất động sản và chứng khoán vẫn gặp nhiều thách thức nhất. Trong những năm qua, thị trường bất động sản tăng trưởng theo kiểu bong bóng khiến giá nhà giá đất cao ngất ngưởng. Các tòa cao ốc, chung cư xây xong không có người mua. Một số nước, khi bong bóng vỡ, giá nhà rơi xuống hơn 50%. Ở Việt Nam vẫn còn mắc cạn trong khâu xử lý các khoản nợ. Nhà đầu tư cũng là người vay nợ nên không cam tâm chấp nhận thực tế giá xuống quá thấp. Thị trường bất động sản do đó tiếp tục đóng băng.
Công nghiệp nặng cũng là ngành gặp nhiều thách thức. Ví dụ ngành sản xuất thép. Cánh cửa hội nhập ngày càng rộng mở, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp không nhiều do phải hoạt động trong môi trường chi phí cao. Khi sự bảo hộ Nhà nước kết thúc sẽ dễ dàng mất ưu thế về tay đối thủ nước ngoài như Trung Quốc.
Các chính sách vĩ mô còn thiếu hỗ trợ tích cực cho doanh nghiệp. Cụ thể, thuế suất của Việt Nam so với các nước trong khu vực còn cao. Theo một công trình nghiên cứu, mức huy động ngân sách (thuế) của nước ta lên đến 27% GDP, trong khi các nước trong khu vực chỉ 17-18%. Lãi suất ngân hàng của Việt Nam so với các nước trong khu vực thuộc vào hàng cao nhất, chưa kể nhiều yếu tố không tên khác làm tăng chi phí cho doanh nghiệp.
- Liệu có lĩnh vực, nhóm ngành nào sẽ có cơ hội kinh doanh tốt trong năm nay?
- Theo tôi, ở bất cứ lĩnh vực nào, nếu doanh nghiệp có kinh nghiệm, công nghệ tốt, kỹ năng quản lý và biết tập trung vốn vào ngành nghề sở trường sẽ giữ được thị trường truyền thống của mình. Điều này cũng giúp họ có cơ hội chiếm lĩnh những khoảng sân trống do các doanh nghiệp thất bại để lại, giúp tăng doanh số, tăng thị phần ngay trong năm nay.
Ví dụ, ai cũng nói ngành may mặc gặp khó vì cạnh tranh quyết liệt từ Trung Quốc, nhưng Công ty An Phước vẫn phát triển mạnh với tốc độ trên 20% một năm. Trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng, Công ty Kềm Nghĩa không đủ hàng cung cấp cho thị trường mặc dù sản lượng tăng gần 20%.
- CPI 4 tháng tăng 2,41%, trong khi lạm phát dự báo năm nay 6-7%. Ông đánh giá như thế nào về tốc độ tăng giá tiêu dùng những tháng tới?
- Tôi nghĩ lạm phát 7-10% không đáng sợ bằng đình trệ sản xuất. Nếu kiềm chế lạm phát bằng cách siết tín dụng, tăng lãi suất ngân hàng, sản xuất sẽ chết.
Kiểm soát lạm phát là cần thiết nhưng phải có quốc sách đồng bộ, cân đối cả hai chính sách tiền tệ, tài khóa và cần giảm độc quyền trong kinh doanh - yếu tố quan trọng gây tăng giá.
Ví dụ: đôi khi giá dầu thế giới giảm nhưng trong nước vẫn duy trì giá bán lẻ xăng dầu cao. Đây là sự tăng giá mang tính độc quyền và không phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát.
Mặc khác, một trong những nguyên nhân quan trọng đưa đến lạm phát là khu vực kinh tế Nhà nước đầu tư không hiệu quả. Giảm bớt đầu tư Nhà nước sẽ giảm khiếm hụt ngân sách. Theo tôi, chính sách tài khóa tiết kiệm và khoan dưỡng sức dân sẽ góp phần kiềm chế lạm phát tốt hơn chính sách tiền tệ thắt chặt.
- Năm 2013, cơ hội đầu tư nước ngoài của Việt Nam sẽ thế nào, thưa ông?
- Trong tình hình hiện nay, Nhật và các nước phương Tây có xu hướng rút vốn ở Trung Quốc, để dịch chuyển sang đầu tư mạnh ở vùng Đông Nam Á như Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, Malaysia. Nếu Việt Nam có môi trường đầu tư, pháp lý tốt sẽ hút được đầu tư.
Dự báo năm 2013, nguồn vốn nước ngoài sẽ vào Việt Nam nhích hơn so với 2012. Trước đây, thị trường bất động sản và thị trường vốn của Việt Nam rất hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay họ chỉ quan tâm mua lại các dự án giảm giá sâu mà không nghỉ đến chuyện đầu tư mới (chắc phải vài năm nữa).
Lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, dịch vụ giải trí, du lịch, phục vụ tiêu dùng nội địa sẽ nằm trong tầm ngắm của nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, xu hướng tham gia góp vốn vào công ty bản xứ làm ăn tốt đang trội hơn xu hướng đầu tư mới trong năm nay, cho thấy nhà đầu tư nước ngoài đang rất dè dặt.

Trả thưởng cho vé số 100 triệu đồng bị rách


(Vnexpress) - Sáng nay, nông dân Dương Văn Tùng ở xã Mỹ Khánh, TP Long Xuyên (An Giang) sang Kiên Giang lĩnh thưởng 100 triệu đồng theo lời mời của công ty xổ số.
Tối 28/4, ông Tùng nhận được điện thoại của Công ty Xổ số kiến thiết tỉnh Kiên Giang với thông tin Hội đồng xổ số đồng ý trả thưởng 100 triệu đồng cho tờ vé bị rách đôi. Nông dân này được công ty mời sang TP Rạch Giá vào sáng nay để làm thủ tục nhận thưởng.
"Hay tin được công ty xổ số trả thưởng làm cả nhà tôi suốt đêm không ngủ được. Vậy là có tiền trả nợ, mua cho vợ con vài bộ quần áo mới", ông Tùng chia sẻ.

Sau gần 3 tháng gõ cửa khắp nơi, ông Tùng đã được Hội đồng Xổ số kiến thiết tỉnh Kiên Giang đồng ý trả thưởng cho tờ vé số 100 triệu đồng bị rách đôi. Ảnh: Trần Đức.
Trước khi ông Tùng nhận được tin vui, chiều 28/4, Hội đồng Xổ số kiến thiết tỉnh Kiên Giang họp xem xét nội dung công văn của Bộ Tài chính trả lời về trường hợp tờ vé số bị rách được dư luận phản ánh hơn hai tháng nay. Ông Võ Văn Tuấn - Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc Công ty Xổ số kiến thiết Kiên Giang - cho biết, đơn vị đã bảo lưu quan điểm ban đầu nên bỏ phiếu không đồng ý trả thưởng. Tuy nhiên, 9/10 phiếu còn lại đồng ý trả thưởng cho ông Tùng nên công ty tuân thủ theo đa số là đúng quy định của pháp luật.
Gần 3 tháng trước, ông Tùng đi làm thuê ở ấp Bình Hòa 2, xã Mỹ Khánh. Trong túi còn chút tiền lẻ, ông mua một tờ vé số của tỉnh Kiên Giang có dãy số 359583, mở ngày 3/2/2013. Sáng hôm sau, hay tin nhiều người trong xã trúng độc đắc, ông nhờ hàng xóm bật điện thoại nhắn tin dò thì cả nhà vỡ òa niềm vui vì trúng giải khuyến khích trị giá 100 triệu đồng.
"Hay tin trúng số, cháu tôi mừng quá giựt tờ vé số để xem. Vô tình tờ vé số bị rách làm hai nên công ty xổ số kiến thiết từ chối trả thưởng", ông Tùng nhớ lại.
Từ đó đến nay, người đàn ông này thường xuyên bỏ việc làm thuê, nhờ cậu bạn của con trai chở đi gần 100 km từ nhà đến TP Rạch Giá (Kiên Giang), gõ cửa nhiều cơ quan chức năng với hy vọng được xem xét trả thưởng.
Giám đốc Công ty Xổ số kiến thiết tỉnh Kiên Giang Võ Văn Tuấn lúc ấy giải thích, theo quy định ghi phía sau của mỗi tờ vé số thì "vé số trúng thưởng phải còn nguyên hình, nguyên số, không tách rời, chắp vá". Vì vậy, công ty không thể cho ông Tùng nhận thưởng.
Cho rằng vé số rách đôi là lỗi khách quan, ông Tùng tiếp tục gửi đơn yêu cầu Hội đồng Xổ số kiến thiết tỉnh Kiên Giang can thiệp. Ngày 3/4, Hội đồng này có văn bản gửi Bộ Tài chính về trường hợp của ông Tùng và kiến nghị Bộ sớm sửa đổi Thông tư 65 để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho khách hàng.
Trả lời văn bản trên, bà Phan Thị Thu Hiền (Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính) dẫn điểm 3.2 phần II, Thông tư 65 của Bộ này quy định: "Trường hợp đặc biệt, vé trúng thưởng bị rách rời nhưng vẫn còn đủ căn cứ để xác định hình dạng ban đầu và tính xác thực, vị trí rách rời không ảnh hưởng đến các yếu tố để xác định trúng thưởng thì công ty xổ số có thể tổ chức thẩm tra, xác minh và xem xét trả thưởng cho khách hàng".
Theo công văn Bộ Tài chính, trường hợp của ông Tùng do vô ý (khách quan) nên tờ vé số bị rách đôi. "Theo Thông tư 65 thì Công ty Xổ số kiến thiết Kiên Giang xem xét trả thưởng cho ông Tùng. Trường hợp cần thiết, công ty đề nghị cơ quan công an giám định trước khi xem xét, quyết định trả thưởng", công văn do bà Hiền ký nêu.

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2013

Một năm kinh tế buồn




Một năm kinh tế buồn (tiền tiền tiền tiền tiền)
Doanh nhân buồn tiền tiền tiền tiền tiền)
Ở khắp nơi năm qua bao nhiêu công ty kinh doanh cùng chết sặc
Loay hoay đi vay nhưng không ai cho, anh em xin vay thì cũng măc
Hàng tồn hàng thừa không ai mua không có tiền để mà rồi đóng hẳn
Bất động sản thì ngày càng chết lặn.

Ngân hàng không cho vay
Doanh nhân lo âu kêu than kinh doanh sao đây mà không cho vay
Thu chi thì lỗ vậy mà giờ này lại bảo là không cho vay
Nợ ngày càng nhiều, bán tháo cổ phiếu mà giờ lại không cho vay, giờ lại không cho vay.

Ừ thì hy vọng dẫu biết có khó khăn vẫn cố vay, hey tìm tiền trả nợ, hey
Tiền thì không còn, đã thế đất đóng băng, vay thì chết, chết không vay cũng chết, chết
Doanh nhân anh kinh doanh sao đây, sao đây, sao đây ây ây ây ây.

Một năm kinh tế buồn (buồn buồn buồn buồn buồn)
Doanh nhân buồn (buồn buồn buồn buồn buồn)
Kinh doanh buồn (buồn buồn buồn buồn buồn)
Mà tôi cũng buồn (buồn buồn buồn buồn buồn).

Ê tình hình khó khăn (buồn buồn buồn buồn buồn)
Ê nợ thì chết luôn (buồn buồn buồn buồn buồn)...

Thế là toi. Nợ đầm nợ đìa ngập đầu ngập nhà
Tình hình này thế là toi
Quanh năm loay hoay đi xin đi vay mà giờ thì rất là gay
Doanh nhân loay hoay kinh doanh sao đây mà giờ thì rất là gay
Giờ này rất là gay (không được vay thì chết)
Một năm kinh tế buồn.

E tình hình khó khăn (buồn buồn buồn buồn)
E nợ thì chết luôn (buồn buồn buồn buồn)
Một năm kinh tế buồn.

Đại tá, anh hùng phi công Nguyễn Thành Trung

Có một giờ G khác vào năm 1974


SGTT.VN - 35 năm hoạt động, trên vai áo ông từng đeo quân hàm không quân hai bên là đối thủ của nhau. 22.000 giờ bay với nhiều loại phi cơ chiến đấu và dân dụng hiện đại nhất từ Đông sang Tây, từ Á sang Âu. Những nếm trải cuộc đời, dường như Nguyễn Thành Trung chẳng thiếu thứ nào. Người ta thường nói vinh quang đi cùng cay đắng. Còn ông, sống chết, tù tội chẳng màng, nhưng những giây phút cô đơn trong cuộc sống hoà bình, ngay trong lòng đồng đội thì thật dài và khó quên. Tháng tư đến rồi lại đi cùng ký ức…
Chặng đường lịch sử dài 38 năm có quá nhiều biến cố, sự kiện ném bom dinh Độc Lập ngày 8.4.1975 đối với ông có ý nghĩa gì? Bây giờ nghĩ về giây phút ấy ông cảm thấy thế nào?
Đối với cá nhân tôi, ngày 8.4.1975 là một bước ngoặt lịch sử quan trọng nhất trong cuộc đời. Lái chiếc máy bay F-5E ném hai trái bom xuống dinh Độc Lập, sau đó quay lại dùng súng phóng lựu vào kho xăng Nhà Bè, là hành động mà tôi ấp ủ trong một quá trình dài, ngay từ thời trai trẻ.
Đối với tôi, chấm dứt chiến tranh để người Việt Nam không còn đổ máu là một việc lớn phải làm. Đó không phải là cảm hứng nhất thời, hay bất chợt, liều lĩnh. Sự nỗ lực cá nhân suốt bao nhiêu năm ở khoa toán – lý đại học Khoa học Sài Gòn, trong vỏ bọc sĩ quan không lực Việt Nam Cộng hoà, hay tại các trung tâm học lái máy bay chiến đấu ở Hoa Kỳ từ năm 1969 – 1972 tôi vẫn chuyên chú cho hành động ấy. Tôi âm thầm luyện tập hạ cánh ở cự ly gần 1.000 mét (trong khi máy bay F-5E phải đáp trên đường băng dài tối thiểu 3.000 mét) đến độ hư hai máy bay và phải chịu kỷ luật hạ lương, giáng chức, suýt nữa là bị lộ tại sân bay Biên Hoà. Nhờ vậy mà ngày 8.4 năm ấy tôi đã hành động chính xác, đáp xuống an toàn tại sân bay dã chiến Phước Long vừa giải phóng. Có thể gọi đó là sự chính xác của lý trí và khoa học. Bước ngoặt 180 độ đó cho tôi được chính danh là tôi – Nguyễn Thành Trung như ngày hôm nay.

Sau khi ném bom Dinh Độc Lập, phi công Nguyễn Thành Trung đã lái máy bay F5E 
hạ cánh an toàn xuống sân bay Phước Long. 

Nhưng báo chí cả hai phía lúc đó chạy những dòng tít lớn gọi ông là “phi công phản chiến”?
Đúng vậy, cấp trên nói với tôi là cần tuyên truyền như vậy để kêu gọi những người trong lực lượng không quân Sài Gòn tiếp tục phản chiến. Tôi nghĩ nói sao cũng được, vấn đề là tôi có làm được nhiệm vụ không? Có còn sống để trở về không? Từ năm 1969, tôi đã là đảng viên.
Còn các đồng nghiệp của ông nói gì về hành động của ông?
Ngay lúc đó thì tôi không biết họ nói gì, nhưng sau này nhiều người cho là tôi hành động hơi dại dột, bởi trước mắt tôi là một hợp đồng với phía Mỹ, sẵn sàng bảo lãnh vợ con tôi sang sống ở Mỹ với điều kiện tốt nhất. Nhưng đó không là lựa chọn của tôi.
Vậy lựa chọn của ông bắt nguồn như thế nào, truyền thống cách mạng của gia đình hay sự tự giác của cá nhân ông?
Ba tôi là một người yêu nước, chống thực dân và hy sinh tại quê nhà. Các anh tôi cũng đi theo con đường yêu nước của ba tôi. Cái chết của ba tôi, càng làm cho tôi ý thức rõ ràng hơn là phải góp phần làm cho chiến tranh sớm chấm dứt, quê hương và dân tộc mình phải được sống trong cảnh thanh bình. Tôi là người biết rõ mình là ai, mình cần phải làm gì. Những việc quan trọng cần làm tôi luôn dự liệu trước hàng chục năm.
Thời khắc đó ông có nghĩ đến sự an toàn của vợ và hai con còn quá nhỏ đang sống ở thành phố Biên Hoà? Có khi nào ông cảm thấy khổ tâm hay hối hận về hành động của mình mang lại nỗi vất vả cho vợ con?
Trước khi ném bom dinh Độc Lập ngày 8.4.1975, lãnh đạo đề nghị đưa vợ con tôi ra vùng giải phóng để tôi yên tâm làm nhiệm vụ. Nhưng lúc đó, tôi bị nghi kỵ nhiều, nguy cơ bị lộ rất cao nên chuyện đó là không thể. An ninh quân đội theo sát gia đình tôi từng giờ, nếu vợ con tôi vắng nhà không rõ lý do thì tôi sẽ bị bắt ngay tức khắc. Cũng có thể trên đường ra vùng giải phóng, vợ con tôi cũng sẽ bị bắt, tình thế đó sẽ nghiêm trọng hơn. Rất lo lắng cho tính mạng vợ con, nhưng việc mà tôi đã tính trước 10 năm đến thời điểm này là không thể dừng. Mặt khác, thời gian sống trong đội ngũ không lực Sài Gòn cho tôi một niềm tin rằng vợ tôi, một người phụ nữ không liên quan gì đến công việc của tôi, con tôi còn quá nhỏ (đứa lớn mới 5 tuổi, đứa nhỏ chưa tròn năm) sẽ không bị đối xử một cách tàn nhẫn.
Thực tế diễn ra đúng như tôi dự đoán. Cánh an ninh không quân đưa xe đến nhà bắt vợ con tôi. Vợ tôi phản đối vì mình không biết gì về công việc của chồng. Họ từ tốn: “Thưa bà, chúng tôi không bắt bà (nếu bắt chúng tôi đã dùng còng số 8, trói bà chẳng hạn), chúng tôi tới đây mời bà vào phòng an ninh sư đoàn, với trách nhiệm bảo vệ sự an toàn tính mạng của bà và các con bà. Nếu bà có tài sản quý giá nào thì bà cứ mang theo”. Một tuần sau vợ và con tôi bị đưa từ Biên Hoà về số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm - Sài Gòn cho đến ngày 30.4.1975. Đương nhiên, họ vẫn điều tra vợ tôi về những gì liên quan đến tôi, nhưng không bị đối xử vô nhân đạo. Có thể đó là những người có học và biết cách ứng xử một cách văn hoá với người thân của kẻ thù. Trong thời gian vợ tôi bị giam ở số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, trung tướng không quân Trần Văn Minh đến thăm với tư cách người chỉ huy có một người lính phản chiến. Ông ấy hỏi vợ tôi có cần bạn bè, người thân đến chuyện trò gì không hay cần mua sắm gì thì ông sẽ giúp đỡ.
Vậy đó, ngày 2.5.1975, tôi lái máy bay từ Phan Rang về sân bay Biên Hoà. Vợ con tôi cũng vừa được giải thoát khỏi số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi gặp lại nhau trong ngôi nhà nhỏ của mình.
Sau ngày thống nhất đất nước, đối diện với bao khó khăn của cuộc sống thường ngày do nền kinh tế bao cấp áp đặt, những lúc ngột ngạt, mệt mỏi ông nghĩ gì?
Tôi là người được học hành tử tế trong những ngôi trường khá lý tưởng của Sài Gòn và tiếp cận nhiều nguồn tài liệu khác nhau, tôi biết rõ những sai lầm trong chính sách kinh tế của miền Bắc nước ta. Bi kịch cải cách ruộng đất còn nguyên đó, công nghiệp chẳng có gì. Khu gang thép Thái Nguyên còn thô sơ lắm, Dệt Nam Định, Sứ Hải Dương chỉ sản xuất được những mặt hàng tiêu dùng cấp thấp, đặc biệt là hạn chế về trình độ của cán bộ quản lý. Sự khác biệt về ý thức hệ giữa hai miền, nhất là do đặc thù của nền kinh tế tự cung tự cấp, cho tôi nhìn rõ sau khi Việt Nam thống nhất, kinh tế sẽ cực kỳ khó khăn ít nhất là mười năm. Tôi chuẩn bị tinh thần đối phó với những khó khăn chung, và cả những khó khăn về mặt cá nhân, nghi ngờ, hay có những phân biệt đối xử này nọ... Tôi chấp nhận đối diện thực tế đó và nghĩ điều quan trọng nhất mình có được là dân tộc Việt được sống trong hoà bình.
Thực tế mười năm khó khăn như ông nói cũng đã được tháo gỡ bởi bước chuyển đổi mới. Nhưng tới bây giờ, người ta lại tiếp tục đưa ra dự báo mình lại đang hụt hơi, tụt đà. Ông nghĩ thế nào?
Thực ra đổi mới một phần vì khi mình tiếp xúc với thế giới mới ngộ ra một điều là đang bị co trong vòng luẩn quẩn, không tìm ra lối thoát trong khi thế giới ào ào tiến lên. Từ ảnh hưởng đó đồng thời tác động mạnh của cuộc khủng hoảng Đông Âu tới mình và cả Trung Quốc, bắt buộc phải một phần nào đó chấp nhận cách làm ăn mới, có sự tư hữu. Tư hữu của thế giới mình không chấp nhận, nhưng con người có quyền tư hữu từ hàng ngàn năm về trước. Mình luẩn quẩn trong khi thế giới đang tiến lên bởi mình không chấp nhận dân làm giàu. Cho nên bắt buộc mình phải công nhận, phải chấp nhận tư hữu ở một mức độ nào đó để dân thở được. Khi đó dân bắt đầu làm ăn được. Cải cách vì vậy là do dân. Cuộc cách mạng này do dân và do lịch sử thế giới tác động. Nếu muốn không tụt đà thì phải nương vào sức dân, dân giàu thì nước mới mạnh.
Sau ngày 30.4, ông có thường gặp lại đồng nghiệp trong những phi đội cũ? Tình cảnh và và tâm thế lúc gặp lại như thế nào?
Bẵng mười năm sau giải phóng, tôi không gặp lại ai trong nhóm những đồng nghiệp cũ. Sau đổi mới, từ năm 1986 trở về sau này, các đồng nghiệp cũ của tôi lần lượt về mới có dịp gặp lại. Lớp tôi có 23 đứa, chết hết bốn, 18 đứa qua Mỹ, chỉ còn mình tôi ở lại. Những lần gặp cũng dễ nói chuyện vì họ đã hiểu rõ mọi chuyện. Tôi cũng hoàn toàn hiểu và tôn trọng họ. Đa phần những đồng nghiệp của tôi đều ở Mỹ. Lúc mới về, tâm lý chung mấy người bạn đều ngại gặp tôi. Tôi thì chả ngại gì, tôi vẫn xem họ là những người bạn. Khi gặp cũng tâm sự nhiều, cũng so sánh chuyện cũ, chuyện bây giờ. Ai cũng công nhận việc tôi làm là góp phần chấm dứt cuộc chiến tranh, chấm dứt cảnh chết chóc, đổ máu. Nhưng điều họ chia sẻ là họ không dám có những quyết định như vậy.
Những người bạn lựa chọn khác tôi lúc qua Mỹ còn trẻ nên ai hội nhập được, sống khá giả. Năm nào mấy ổng cũng ngồi lại với nhau, chuyện nói nhiều nhất là về tôi. Nhiều anh em bảo quyết định của tôi hơi dại dột, vì sau giải phóng sống kiểu gì cũng bị nghi ngờ, đói khổ… Tôi trả lời đó không phải là quyết định bậy bởi tôi ý thức được việc cần làm. Cái gì cũng vậy, làm thì phải trả giá nhưng tôi chấp nhận việc đó. Nhưng qua những thăng trầm của đất nước, nhiều kinh nghiệm cuộc đời đúc kết lại, tôi thấy việc tôi làm càng ngày càng đúng. Còn hỏi tôi có lăn tăn hay không, tôi trả lời thật là thánh mới không lăn tăn, nhưng những cái lớn nhất át những lăn tăn nhỏ đi, nên hàng đêm tôi ngủ yên vì biết tôi đang ngủ trên đất nước mình, chứ qua Mỹ sướng thật nhưng ngủ không yên bởi lúc nào cũng đau đáu một quê hương chỉ còn trong ký ức. Nhiều đứa bạn nói thẳng: “Đến bây giờ mới nghe được một người nói điều đó là mày”. Chúng tôi gặp nhau trao đổi thẳng thắn, không giấu giếm điều gì, nói đến tận cùng suy nghĩ của mỗi người.
Với ông, quê hương là thế nào?
Tôi có tới hai quê hương. Một Bến Tre nơi tôi sinh ra, nơi đó là dòng tộc máu mủ, nơi đó cha mẹ tôi đã nằm xuống cho chúng tôi trưởng thành. Vốn là xứ học, địa linh nhân kiệt, nhiều tên tuổi trí thức lớn Việt Nam xuất phát từ đây. Những Phan Thanh Giản, Võ Trường Toản, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Đình Chiểu… là những tấm gương của nhân – nghĩa – lễ – trí – tín mà tôi từng học được.
Còn một quê hương khác, Sài Gòn đối với tôi là máu thịt, là tình yêu, là gì đó không thể lay chuyển được dù cho năm tháng trôi qua, nhìn góc phố thay đổi, cũng nhiều lúc buồn vui hờn giận, tiếc nuối…
Ông từng thổ lộ về một người bạn rất thân, giữa ông với người đó hình như có một món nợ ân tình đến nay vẫn còn đau đáu?
Người bạn ấy đến giờ sau 38 năm vẫn chưa gặp lại mặc dù tôi nghe tin ảnh có quay về. Ảnh cùng ở phi đoàn phản lực không quân Sài Gòn với tôi nhưng không phải cùng lớp. Anh ấy là một người đặc biệt. Khi đó, lãnh đạo báo cho tôi biết có một cán bộ nội tuyến trong lực lượng pháo binh bị bắt khai có một phi công quê Bến Tre là nội tuyến của Việt cộng. Tôi nhẩm tính trong không quân có độ chục người gốc gác Bến Tre, riêng phi đoàn phản lực thì có tôi và người bạn mà tôi kể ở trên, người cùng xã, cùng học trường tiểu học nhưng trên tôi hai lớp. Khi thông tin bị lộ như thế thì tất cả những người gốc Bến Tre đều bị triệu tập điều tra. Anh bạn tôi bị ngưng bay, an ninh không quân gọi lên làm việc liên tục. Anh ấy không biết có chuyện gì, nhưng tôi thì biết rõ nguyên nhân. Tuy lý lịch anh ấy không có vấn đề gì nhưng anh có người chị học đại học sư phạm từng tham gia biểu tình chống Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Lúc đó, tôi cũng như ngồi trên lửa, nhiều chuyện không thể tâm sự, chia sẻ với ai được. Khoảng một tuần sau, tôi gặp ảnh và tôi nghĩ ảnh biết rõ về tôi, từ gia đình đến công việc của tôi. Ảnh nói: “Riêng mày thì tao “ba không”, ai hỏi tao về mày tao cũng không biết, không nghe, không thấy”. Khi nghe câu đó, tôi nhập tâm đến giờ, tới chết tôi sẽ mang theo lời nói và hình ảnh của anh ấy.
Tôi ngẫm nghĩ ở đời có nhiều người cực xấu nhưng cũng có nhiều người cực tốt. Cái tốt - xấu đó mong manh lắm, nhưng người ta không cần xác nhận. Là bạn thân nên anh ấy bảo vệ chứ không phải vì tôi là Việt cộng hay cán bộ mà anh ấy ứng xử như vậy. Trong thâm tâm tôi nhiều lần muốn gặp lại anh ấy, nhưng để làm gì, nói một lời cảm ơn liệu có ý nghĩa gì? Tôi động viên mình có lẽ trong tình cảnh ấy đến giờ chỉ cần hai tâm hồn bạn bè hiểu nhau là đủ. Tôi nguyện cho tới chết tôi sẽ mang điều ấy theo.
Ông đã bước ra khỏi vỏ bọc của một điệp viên, lái máy bay trên bầu trời hoà bình, và làm công việc đào tạo, hết lòng với một thế hệ phi công trẻ Việt Nam. Điều đọng lại trong ông sau thời gian dài gắn bó với công việc đào tạo, huấn luyện ấy là gì?
Giã từ cuộc chiến, tôi thấy mình làm khá nhiều việc mà những việc đó chắc không phải ai cũng làm được. Hồi còn sống, anh Hai Trung (tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn) nói nửa đùa nửa thật: “Việc ông ném bom dinh Độc Lập, Nhà nước phong ông anh hùng thì tôi không nói làm gì, còn công việc ông làm sau này nếu được, tôi phong ông hai lần anh hùng nữa”. Anh Hai Trung hiểu về công việc đặc thù của tôi. Khi giải phóng, cả một bề thế không quân chế độ cũ bỏ lại, tôi là người làm sống lại phi đội A37 sau này tham gia đánh Tân Sơn Nhất vào ngày 28.4 trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. F5 là máy bay chiến đấu hiện đại nhất của Sài Gòn lúc bấy giờ mà Mỹ bỏ lại mấy phi đoàn nhưng không có người bay. Giá trị vậy nhưng bỏ lại quá lâu bị hư hại nhiều, có chiếc bị bắn phá thủng lỗ chỗ. Nhiều chiếc còn bị bộ đội tiếp quản tháo đi những tiện nghi nội thất hay linh kiện quan trọng… Sau khi thành lập bộ phận tiếp quản, tôi nhận nhiệm vụ làm sống lại những chiếc máy bay này. Khi sửa xong, tôi là người bay thử. Phi công bay thử của người ta điều kiện bảo hiểm ngặt nghèo lắm, còn tôi thì như con thiêu thân. Gần 50 lần bay như thế, tôi luôn sẵn sàng tình huống nhảy dù khẩn cấp bởi máy bay có thể hư bất cứ lúc nào. Mỗi lần bay, nhiên liệu chỉ cung cấp đủ phân nửa cơ số. Vốn là người nhạy cảm trong cuộc sống, con ruồi bay qua tôi phân biệt ruồi đực hay ruồi cái, huống chi chuyện nhiên liệu chỉ đủ bay một vòng trong bán kính hẹp. Điều lăn tăn mà tôi kể trên là như vậy đó.
Tháng 8.1975 sau khi hồi phục xong rồi, tôi huấn luyện cả một phi đội, bay thành thục F5 để thành lập trung đoàn không quân 935, sau này trở thành trung đoàn anh hùng.
Đã quá cái tuổi lục thập nhi nhĩ thuận, còn điều gì ông thấy hối tiếc, hoặc món nợ nào ông chưa trả được?
Đến giờ này tôi vẫn ân hận, tiếc là không được chết vì Hoàng Sa. Ngày 18.1.1974, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên chiếm đảo Hoàng Sa, phía Việt Nam Cộng hoà khi đó có một đại đội địa phương quân chốt trên đảo Phú Lâm. Hai bên đánh nhau, cùng có thương vong về con người nhưng quân số Trung Quốc đông quá, 51 lính địa phương quân của ta bị bắt đưa về Trung Quốc. Việt Nam Cộng hoà lên tiếng phản đối việc Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự để chiếm đảo của Việt Nam một cách phi pháp. Đây là sự kiện lớn, dư luận thế giới cũng phản đối việc đó.
Lúc này hải quân của Việt Nam Cộng hoà không thể đổ bộ chiếm lại đảo được. Ngày 19.1.1974, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu điều năm phi đoàn F5, bốn ở sân bay Biên Hoà, một ở sân bay Đà Nẵng, mỗi phi đoàn có 24 máy bay và 120 phi công ra Đà Nẵng chuẩn bị đánh lấy lại Hoàng Sa. Mọi người rất phấn khởi, tụi tôi đi ra với tư thế là đi lấy lại một phần lãnh thổ đất nước. Sĩ quan cấp tá ở các phi đoàn 520 – Nguyễn Văn Dũng, 536 – Đàm Thượng Vũ, 540 – Nguyễn Văn Thanh, 544 – Đặng Văn Quang, 538 – Nguyễn Văn Giàu đều đã lên kế hoạch tác chiến kỹ lưỡng.
150 phi công thuộc sáu phi đoàn F5 của không lực Việt Nam Cộng hoà khi đó đều ký tên chung vào một lá đơn tình nguyện “Xin được chết vì Hoàng Sa”.
Hàng ngày, máy bay RF5 có nhiệm vụ bay và chụp ảnh các toạ độ từ nhỏ nhất ở Hoàng Sa, xem có thay đổi gì, tàu chiến Trung Quốc di chuyển ra sao, bố trí các cụm phòng thủ thế nào… đưa về chiếu ra cho tất cả phi công theo dõi. Tụi tôi đếm từng tàu một, thậm chí đếm được cả số ghi trên tàu, chia bản đồ ra làm bốn, mỗi góc tư giao cho một phi đoàn, phi đoàn thứ năm bay bảo vệ trên không. Họ có 43 tàu tất cả và quyết tâm của tụi tôi là đánh chìm tất cả 43 tàu đó trong vài giờ.
Về không quân, vào thời điểm đó chúng tôi có nhiều lợi thế hơn Trung Quốc. Bay từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa bằng cự ly từ đảo Hải Nam ra. Ưu thế của phi đội tụi tôi là máy bay bay ra, đánh nửa tiếng vẫn thừa dầu bay về còn Trung Quốc chỉ có Mig 21, bay ra đến Hoàng Sa thì không đủ dầu bay về. Khí thế phi công lúc đó hừng hực, mấy anh chỉ huy trưởng từ đại tá trở xuống đòi đi đánh trước. Tất cả háo hức chờ đến giờ G là xuất kích. Nhưng giờ G ấy đã không đến. Hạm đội 7 của Mỹ trên biển không cứu các hạm đội của đồng minh Việt Nam Cộng hoà bị bắn chìm và bị thương trên đảo. Dường như vì lợi ích của mình, các quốc gia lớn có quyền mặc cả và thương lượng bất chấp sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia khác.
Một mảnh đất dù nhỏ cũng là tổ quốc mình, cha ông ta đã đắp xây nên bờ cõi, là con dân của đất nước ai cũng có nghĩa vụ thiêng liêng gìn giữ lấy.Tụi tôi háo hức sẵn sàng tất cả nhưng cuối cùng không được chết cho Hoàng Sa. Tới bây giờ tôi vẫn ân hận. Sau này bạn bè tôi gặp lại nhau cũng cùng một tâm trạng: đáng lẽ tụi mình chết cho Hoàng Sa thì vinh dự hơn!
Là người đi nhiều nơi, có điều kiện tiếp cận với chuyện làm ăn, ông thấy phẩm chất, tư cách của người Việt Nam có đứng được ở những thị trường minh bạch?
Cũng tuỳ người. Thí dụ như thị trường Lào, nhiều nhà đầu tư của mình không dám qua đó nữa bởi vì làm kiểu nói dóc, hứa nhiều nhưng làm chẳng bao nhiêu. Họ nói thẳng là mấy ổng đó qua họ không tiếp. Cách làm ăn của người Việt mình cũng có nhiều cái người ta không chấp nhận, chỉ chụp giật, bốc hốt ở đây thôi chứ ra ngoài người ta không chấp nhận.
Hiện nay ông có bằng lòng với cuộc sống của mình?
Thời nào tôi cũng bằng lòng với hiện tại. Thời khó khăn nhất cũng như khi đất nước đổi mới đến nay, tôi bằng lòng với những cái mình hiện có. Đó là hạnh phúc tự tạo. Nếu để làm giàu tôi sẽ đi đường khác và tôi biết cách làm giàu, nhưng tôi đã không lựa chọn như vậy. Tôi vẫn nghĩ “tri túc tiện túc hà thời túc”, mình biết đủ thì lúc nào cũng đủ, còn ham muốn, lúc nào cũng thấy thiếu thì không bao giờ đủ cả. Tôi bằng lòng với cuộc sống con cái học hành đàng hoàng, lễ phép với cha mẹ. Hiện tôi vẫn chưa nhàn được, tôi vẫn đi làm thuê, nhưng làm để vui, chứ làm để buồn thì tôi không bao giờ làm.

Để giải toả những mệt mỏi trong công việc, ông có chơi thú giải trí gì khác?
Tôi cũng thích nhiều nhưng tự thấy mình không có điều kiện, chẳng hạn như đánh golf , làm sao đủ sức, đủ tiền mà vác cái gậy mấy chục ngàn đô. Đối với tôi bây giờ sức khoẻ là trên hết, liệu sức để làm việc thôi. Tôi sống trên không nhiều quá rồi, giờ ngồi dưới đất thú thực là thấy tay chân tù túng, bay một tí cho vui nên đến nay tôi vẫn bay đều.
Cảm ơn về cuộc trò chuyện chân tình và thẳng thắn của ông.

Đất nước những tháng năm thật buồn


Nguyễn Khoa Điềm


Đất nước những năm thật buồn
Nửa đêm ngồi dậy hút thuốc vặt
Lần mò trên trang mạng tìm một tin lành
Như kẻ khát nước qua sa mạc
Chung quanh yên ắng cả
Ngoài đường nhựa vắng tiếng xe lại qua
Người giàu, người nghèo đều ngủ
Cả bầy ve vừa lột xác

Sao mình thức ?
Sao mình mải mê đeo đuổi một ngày mai tốt lành ?

Bây giờ lá cờ trên Cột cờ Đại Nội
Có còn bay trong đêm
Sớm mai còn giữ được màu đỏ ?
Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng
Mong gặp một con cá hanh khác ?
Bao giờ buổi sáng, buổi chiều nhìn ra đường
Thấy mọi người nhẹ nhàng, vui tươi
Ấm áp ly cà phê sớm
Các bà các cô khỏe mạnh yêu đời
Hớn hở tập thể dục
Bao giờ giọt nước mắt chảy xuống má
Không phải gạt vội vì xấu hổ
Ngước mắt, tin yêu mọi người

Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi ?
Những cây thông trên núi Ngự Bình thấp thoáng ngọn nến xanh
Đời đời an ủi
Cho người đã khuất và người sống hôm nay …

 22.4.2013

Chết để con được học!


(Phapluattp) - Do bệnh tật và quá nghèo, chị đã chọn cái chết để giảm gánh nặng cho chồng con, để các con có điều kiện tiếp tục con đường học vấn.
Người mẹ ấy là chị Nguyễn Thị Mỹ Nhân, 48 tuổi, ở ấp 5, xã An Xuyên, TP Cà Mau (Cà Mau). Cái chết thương tâm của chị khiến nhiều người xung quanh phải giật mình thảng thốt. Đọc bức thư tuyệt mệnh của chị để lại cho chồng con ai cũng rơi nước mắt.
Chết để tiết kiệm cho chồng con!
Anh Đinh Hoài Bảo, chồng chị Nhân, hướng mặt về phía bàn thờ, nhìn sâu vào di ảnh vợ mà nước mắt lưng tròng. Anh kể: “Tháng trước, vợ tôi nói sẽ chết đi để có tiền cho cha con tôi tiếp tục cuộc sống, tiếp tục việc học hành. Tôi đã hết lời khuyên ngăn nhưng bà ấy vẫn quyết tâm…”.
Anh Bảo sụt sùi kể tiếp: “Vợ tôi đang bị bệnh viêm dây thần kinh số 7, giật méo miệng, thêm suy thận, suy tim, mỗi ngày tốn tiền thuốc 140.000 đồng. Vợ tôi nghĩ rằng chết đi sẽ tiết kiệm được khoản này và còn được mọi người đi phúng điếu sẽ kiếm thêm được chút ít tiền nữa cho chồng con…”.
Chị Nhân sinh ra và lớn lên rồi lập gia đình ngay ở xã An Xuyên, TP Cà Mau. Sau khi lấy nhau, anh chị được cha mẹ hai bên cho năm công đất ruộng. Việc trồng trọt thất bát, cộng thêm vài trận bệnh của chị, năm công đất phải bán đi để trả nợ nần và lo việc học cho các con. Cả hai vợ chồng anh chị cùng có chung hoài bão là sẽ nuôi ba đứa con trai ăn học đến nơi đến chốn để thay đổi tương lai chứ không để giống như cha mẹ. Với quyết tâm này, anh chị đã tảo tần mười mấy năm qua bằng đủ loại nghề, miễn là kiếm được tiền. Khi thì cả hai cùng đi phụ hồ, khi thì đi bán rau cải, bánh mì ngoài chợ…
Không đủ tiêu chuẩn hộ nghèo
Năm 2011, sức khỏe chị Nhân suy yếu, không còn làm phụ hồ được, cũng không thể bê xịa bánh đi bán, chị xin một chân giúp việc nhà cho một gia đình ở TP Cà Mau.
Thời điểm này, con trai lớn của chị là Đinh Công Bằng thi đậu vào CĐ và đi học ở Bà Rịa-Vũng Tàu, tiền nong gia đình vì vậy càng thêm bức bách. Nghe đến những chính sách hỗ trợ của Nhà nước, chị chạy đôn chạy đáo đi tìm hiểu và tìm cách làm đơn xin được hỗ trợ, cứu giúp. Chị làm đơn kể hoàn cảnh khó khăn để đi xin vay tiền cho con học CĐ. Ấp, xã cùng chứng thực hoàn cảnh khó khăn của chị nhưng khi đến Ngân hàng Chính sách của TP Cà Mau thì bị từ chối vì chị không có sổ hộ nghèo. Chị lại về xin công nhận hộ nghèo nhưng xin hoài mà vẫn không được. Bởi người ta xét nhà chị có hai lao động chính, thu nhập 5 triệu đồng/tháng (anh làm thợ hồ ngày được 100.000 đồng, tức 3 triệu đồng/tháng, chị đi giúp việc được 2 triệu đồng/tháng nữa, tổng cộng là 5 triệu đồng)! Chia cho năm nhân khẩu thì bình quân mỗi nhân khẩu được 1 triệu đồng/tháng. Trong khi đó, quy định hiện hành tại xã chị thì bình quân thu nhập 401.000 đồng/nhân khẩu trở xuống mới được xét cấp sổ hộ nghèo và từ 520.000 đồng/nhân khẩu đến 401.000 đồng/nhân khẩu thì mới được xem là hộ cận nghèo. Vậy là chị không dính vào diện nào cả, đành ngậm ngùi sau bao lần lên ấp, lên xã xin sổ hộ nghèo.
Tháng 3-2013, sau một ngày đi khám và điều trị bệnh, chị bị mất luôn công việc giúp việc nhà. Bao gánh nặng như tiền học cho ba đứa con, tiền thuốc cho chị, tiền hụi chết đã hốt non lo cho con ăn học… dồn lên vai người chồng. Tự thấy mình là gánh nặng, ngay sau khi mất việc, chị đã nói với chồng là sẽ chết đi. Và chiều 24-4, lúc 15 giờ, con trai út của chị đã phát hiện mẹ mình treo cổ chết trong phòng ngủ, bên cạnh là một bức thư tuyệt mệnh đầy bốn trang giấy học trò!
“Xin cấp cho chồng tôi sổ hộ nghèo”
Chị mới học tới lớp 4, văn từ lủng củng nhưng bức tuyệt thư chị viết ra bằng tâm sức cuối cùng đã gây động lòng biết bao bà con ở xã An Xuyên. Mở đầu chị viết: “Anh! Trong hoàn cảnh quá khổ sở, không lối thoát, em đành phải xa anh và các con…”. Theo đó, chị bảo rằng việc chọn cái chết là vì để cho chồng bớt gánh nặng tiền thuốc men cho vợ, dành phần tiền này lo cho các con ăn học; vì bản thân bệnh nặng, sức khỏe tinh thần đều suy sụp; vì muốn phù hộ cho chồng con khỏe mạnh, trúng số độc đắc; và cuối cùng là để chính quyền địa phương xót thương mà cấp cho chồng con chị cái sổ hộ nghèo hoặc cận nghèo.
Đoạn nói về sổ hộ nghèo, trong thư chị viết: “Xin các cấp chính quyền ấp 5 thấu hiểu cho hoàn cảnh không lối thoát của chúng tôi hiện nay mà cấp sổ hộ nghèo cho chồng con tôi để sống những ngày tháng còn lại trên đời”. Trong thư, chị Nhân nhắc đi nhắc lại câu: “Anh Bảo, em thương anh nhiều lắm. Chết là hết, chỉ thương anh ở lại trên đời với biết bao gánh nặng… Các con Bằng, Tâm, Ngân đừng trách mẹ. Hãy gắng học nên người, đừng để cha con buồn. Cha con đã khổ với mẹ con ta nhiều lắm!”.




Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2013

Làm rõ khái niệm “bồi thường” trong sửa đổi Luật Đất đai


(VOV) - Những mâu thuẫn chủ yếu về đất đai trong thời gian qua có nguyên nhân từ kinh tế, trong đó nổi lên rõ nhất là việc đền bù...

Thu hồi đất điều quan trọng là phải tạo ra điều kiện
cần và đủ cho một cuộc sống mới của người dân
Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi đang được đưa ra lấy ý kiến đã nhận được sự quan tâm của hầu hết người dân cả nước. Sau 2 tháng, đã có gần 7 triệu ý kiến đóng góp sửa đổi Luật Đất đai về nhiều nội dung như trình tự, thủ tục cưỡng chế thu hồi đất, quyền lợi và trách nhiệm của người được giao quyền sử dụng đất, chủ sở hữu đất đai và đại diện chủ sở hữu… trong đó các vấn đề về bồi thường cho người dân bị thu hồi đất được khá nhiều ý kiến quan tâm.
Phân biệt rõ “bồi thường” với “hỗ trợ”
Theo GS Nguyễn Quang Thái, Ủy viên Hội đồng tư vấn Kinh tế, Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, hệ thống quản lý đất đai tuy được hình thành và hoàn thiện, nhưng vẫn còn nhiều lỗ hổng về pháp lý, kỷ cương thực thi và giám sát. Vì vậy những xung đột xung quanh đất đai giữa người dân có đất với doanh nghiệp và chính quyền ngày càng phức tạp. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là những mâu thuẫn kinh tế, trong đó nổi lên rõ nhất là việc đền bù. Đã có nhiều quy định về việc đền bù, đảm bảo kế sinh nhai cho người dân bị thu hồi đất, nhưng trên thực tế những quy định đó vẫn còn nhiều nơi chưa thực hiện đầy đủ. Và bản thân một số quy định cũng chưa đảm bảo được lợi ích lâu dài cho người dân bị thu hồi đất.
Ông Nguyễn Văn Tuấn, Phó Chủ nhiệm Hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt-Đức cũng cho rằng, việc dân khiếu kiện nhiều trong thời gian vừa qua có nguyên nhân là do việc có những văn bản liên quan đến đất đai chưa đúng với Hiến pháp. Vì không đúng nên người nhân dân có cơ sở để khiếu kiện và khiếu kiện kéo dài.
Theo ông Phạm Gia Hải, Ủy viên Hội đồng tư vấn về Kinh tế, hiện nay mắc mớ nhất là vấn đề về bồi thường. Vì thế, dự thảo Luật phải làm rõ khái niệm “bồi thường”. “Bồi thường cái gì, người dân suy nghĩ gì khi giải tỏa. Họ suy nghĩ hai vấn đề: Cuộc sống của họ sẽ như thế nào, và họ ở như thế nào. Luật mới đề cập đến việc bồi thường giá trị đất và nhà cửa bị phá đi. Còn việc đảo lộn cuộc sống của người dân thì chưa đề cập đến, hoặc đưa sang phần hỗ trợ. Hỗ trợ thì luôn co giãn, cho nên phải quy định thật rõ nội dung bồi thường gồm những gì”.
Ông Phạm Gia Hải dẫn lời của Phó Giám đốc Sở Tài nguyên môi trường Hà Nội mà ông tâm đắc rằng, khi tổ chức thực hiện một dự án cần phải qua 3 giai đoạn, gồm: công tác chuẩn bị, tổ chức thực hiện và tái định cư, hậu tái định cư. Nhưng ở đây những chủ đầu tư mới chỉ tổ chức thực hiện dự án, bỏ qua giai đoạn 1 và 3. Nhiều dự án vừa công bố đã tiến hành giải phóng mặt bằng ngay. Thực tế đối với người dân, việc thay đổi chỗ ở và toàn bộ cuộc sống sinh hoạt và có thể ảnh hưởng đến cả phong tục tập quán của cộng đồng dân cư. Điều này tạo ra phản ứng ngược, hoặc người dân tìm cách cản trở quyết định đầu tư để giải quyết vướng mắc. Cần công khai bản quy hoạch từ 2 năm trở lên và chỉ rõ những hộ dân tái định cư sẽ được di chuyển đến đâu để họ có sự chuẩn bị trước, đồng thời phải có các cuộc điều tra xã hội học về việc làm, học hành của người dân. Điều quan trọng là phải tạo ra điều kiện cần và đủ cho một cuộc sống mới. 
Ông Hải cũng đồng tình với quan điểm, bồi thường phải xem xét gồm những nội dung gì, chứ không đơn thuần là chỉ bồi thường cái nhà phá đi hoặc bồi thường đất, mà còn cả cuộc sống của người dân. “Nhiều dự án tiền hỗ trợ còn nhiều hơn tiền bồi thường, cho nên phải định danh cho rõ. Phần nào là hỗ trợ, phần nào là bồi thường”- ông Hải đề nghị.
Ông Nguyễn Văn Tuấn, Phó Chủ nhiệm Hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt-Đức cho rằng, theo quy định của Nhà nước đất đai là sở hữu toàn dân, nghĩa là người dân có quyền sở hữu, Nhà nước chỉ quản lý về đất đai. Và trong điều 72 dự thảo Luật quy định rõ: “Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất, nếu có đủ điều kiện được bồi thường quy định tại điều 72 của Luật thì được bồi thường bằng giao đất mới có cùng mục đích sử dụng đất với loại đất vị thu hồi. Nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền”.
Theo ông Tuấn, cần phải làm rõ khái niệm “bằng tiền” trong Luật, nghĩa là phải bằng tiền Nhà nước thu của đơn vị mới. Nếu như vậy dân sẽ không thắc mắc. “Còn nếu “bằng tiền” mà thấp hơn tiền thu của đơn vị mới thì dân sẽ thắc mắc và mâu thuẫn sẽ không bao giờ chấm dứt. Hiện nay đang có tình trạng Hiến pháp quy định một đằng, thực hiện một nẻo. Như vậy phải sửa những điều chưa hợp lý trong Luật Đất đai, có sửa được điều này chắc chắn sự khiếu kiện sẽ được chấm dứt”- Ông Tuấn nói.
Phải tính cả thời gian sử dụng của hộ dân trên mảnh đất
Ông Trần Văn Tư, Trưởng pḥòng Cơ chế chính sách, Ban chính sách pháp luật, Tổng Liên Đoàn Lao động Việt Nam cho rằng, giá đất khi thu hồi và giá đất khi giao có sự chênh lệch nhau. Giá đất khi giao là “giá cả”, nhưng khi thu hồi là giá trị chưa tính đủ. “Vậy Nhà nước định giá chính là giá trị, mà giá trị chưa tính đủ. Chúng ta mới chỉ tính giá hiện tại của đất tại thời điểm đó. Chúng ta phải tính thời gian sử dụng của hộ dân trên mảnh đất của họ. Nếu Luật quy định là 50 năm, giá trị của mảnh đất đó cũng được tính như vậy, để người dân nhận được giá trị đó và đảm bảo cuộc sống của họ sau này. Nếu không chúng ta sẽ mắc phải tình trạng như vừa qua là các gia đình nhận tiền bồi thường xong là cha con lục đục, tệ nạn xã hội xâm nhập vào các địa phương đó. Sắp tới, trong quá trong xây dựng Luật ngay từ Chương đầu, nguyên tắc xây dựng Luật phải được cụ thể, để các Chương sau chỉ việc tham chiếu, tuân thủ theo các nguyên tắc đó”.
Ông Phạm Ngọc Thảo, nguyên Phó Chủ tịch MTTQ TP Hà Nội cũng cho rằng, Luật cần quy định rõ về nguyên tắc cơ bản khi thu hồi đất để một mặt đảm bảo quyền năng của cơ quan quản lý Nhà nước, trong việc điều tiết giao đất cho người lao động thực sự có nhu cầu để việc sử dụng đất thực sự có hiệu quả.
Theo ông Thảo, về các trường hợp thu hồi đất, trong Luật sửa đổi lần này phạm vi mục đích thu hồi đất quá rộng, không giới hạn cho việc thu hồi đất. Điều này gây khó khăn cho người dân đang sử dụng đất và có thể dẫn tới tình trạng ép dân để thu hồi đất. Luật cũng nên quy định các chính sách kèm theo đối với người dân bị thu hồi đất, vì càng cụ thể bao nhiêu, càng dễ thực hiện bấy nhiêu, tránh trường hợp “lách luật” dẫn tới nhiều vi phạm về đất đai như trong thời gian vừa qua.
Về nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất, ông Thảo đề nghị có một khoản quy định về phương thức bồi thường khác nhau đối với thu hồi đất vì mục đích khác nhau. Trong đó việc thu hồi vì mục đích an ninh quốc phòng thì khác với thu hồi để kinh doanh nhà ở. “Về phương thức, thủ tục, giá cả và trình tự phải khác nhau vì mục đích, ý nghĩa của việc thu hồi khác nhau. Quy định đó sẽ hạn chế được việc lạm dụng quỹ đất để làm giàu cho doanh nghiệp kinh doanh, gây thất thoát, lãng phí đất và thiệt thòi cho người dân”- Ông Thảo nói.
Ông Thảo cũng đề nghị, về quy định cưỡng chế khi thu hồi đất, cũng chỉ nên quy định cưỡng chế trong trường hợp người bị thu hồi đất vi phạm pháp luật, để hạn chế việc các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền lạm dụng quyền lực để cưỡng chế người dân bị thu hồi đất khi mà chính các cơ quan thu hồi đất vi phạm về chính sách, gây thiệt hại cho người dân./.